Translate

Tp Ho Chi Minh -Vung Tau



Hiện nay xe chúng ta đang thuộc địa phận Tp Hồ
Chí Minh là một trong những thành phố lớn và đông dân nhất cả nước với diện
tích hôm nay rộng hơn 2093,7 km2, dân số 5.037.155 người (01/04/1999). Tp Hồ
Chí Minh có năng lực về sản xuất kinh doanh và đang phát triển khá sầm uất nhất
khu vực Đông Nam Á.

Ngược dòng lịch sử vào 1698 Chưởng Cơ Nguyễn Hữu
Cảnh vâng lệnh chúa Nguyễn vào Nam Kinh lược đã lập dinh Phiên Trấn đặt cơ sở
hành chính đầu tiên của Sài Gòn nay là Tp Hồ Chí Minh. Nếu không nhìn lại lịch
sử , chúng ta thật khó hình dung nổi vùng đất này hơn 300 năm trước chỉ là bãi
sình lầy, hoang vu. Nơi đây đất lành chim đậu đã có sức cuốn hút khác thường:
người từ nhiều miền đất xa xôi nào đó đã đặt chân đến đây là trụ lại rồi sinh
sôi nảy nở. Bằng bàn tay và khối óc, bằng mồ hôi nước mắt và cả xương máu nữa,
họ đã biến vùng đất hoang sơ thành đồng ruộng phì nhiêu, phố phường đông đúc để
rồi trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ lớn của cả nước
như ngày hôm nay và mãi mãi trong tương lai.

 Tp Hồ Chí Minh đã phải chịu nhiều tác động của bao cuộc chiến tranh để đến ngày nay là một trong những thành phố đa văn hóa, đa dân tộc. Hiện nay Tp Hồ Chí Minh là trung tâm du lịch
lớn nhất cả nước thu hút hằng năm 70% lượng khách quốc tế đến Việt Nam.Thì hôm
nay qúy khách hãy rũ bỏ hết những vất vả lo toan của công việc hằng ngày, tạm
biệt Tp Hồ Chí Minh thân yêu để đến với một thành phố êm đềm hơn tận hưởng
những ngày nghỉ tuyệt vời.

NGÃ TƯ HÀNG XANH

Thưa qúy du khách, phía trước chúng ta là ngã tư
Hàng Xanh. Sở dĩ có tên gọi là Hàng Xanh theo Sài Gòn xưa của Vương Hồng Sển:
trước đây vùng này có trồng nhiều loại cây Xanh (là loại cây cổ, cùng loại với
cây si) được đọc trại nên có tên gọi là Hành Xanh. Nút giao thông này được xây
dựng 17/09/1994, hoàn thành vào 30/4/1995 (nhân kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng
Thành phố Sài Gòn) do công ty Huy Hoàng thi công với tổng kinh phí xây dựng
15,6 tỷ đồng, nếu tính luôn tiền đền bù giải tỏa kinh phí lên đến 63 tỷ đồng.
Mục đích xây dựng nút giao thông Hàng Xanh nhằm giải quyết tình trạng kẹt xe
thường xuyên trong thời gian trước. Nút giao thông Hàng Xanh là cửa ngõ quan
trọng phía Bắc thành phố, hiện tại ở nút giao thông Hàng Xanh đến cầu Văn Thánh
được mở rộng 2 bên có 4 làn xe chính và 2 làn xe phụ(tổng cộng 12 làn xe). Từ
cầu Điện Biên Phủ đến chân cầu Sài Gòn sẽ được xây dựng mới với bề mặt cắt
ngang là 100m và mở rộng đường Đinh Tiên Hoàng gấp đôi, với vốn đầu tư là 370
tỷ đồng.

Khu vực Văn Thánh có nhiều tên gọi: cầu Văn
Thánh, bến xe Văn Thánh, khu du lịch Văn Thánh. Tên Văn Thánh có từ 1824 (Minh
Mạng 5) ở khu vực này có xây dựng ngôi Văn Miếu thờ đức Khổng Tử nên người dân
gọi là Khu Văn Thánh, trong thời Pháp miếu này bị phá bỏ và hiện nay không còn
nữa. Xe chúng ta đang đi qua cầu Văn Thánh, cầu được bắc qua rạch Văn Thánh đổ
ra rạch Thị Nghè và sau đó đổ ra sông Sài Gòn.

Phía bên tay trái của qúy khách là bến xe Văn
Thánh và chợ Văn Thánh. Bến xe Văn Thánh là một bến xe lớn có từ lâu đời ở khu
vực này, từ đây có thể đi Biên Hòa, Vũng Tàu và một số tỉnh miền Trung. Khoảng
cuối năm 1996 bến xe được dời sang bến xe miền Đông với lý do ở đây xây dựng
đường lớn và đường cao tốc, nếu để bến xe ở khu vực này sẽ gây ách tắc giao
thông. Chợ Văn Thánh được xây dựng khoảng 1993-1995 dự kiến đây là chợ đầu
mối(giống như chợ An Lạc và bến xe miền Tây) cho các loại hàng hóa từ miền
Trung và khu Tân Cảng, nhưng chợ khánh thành và buôn bán không lâu thì bến xe
Văn Thánh dời đi làm cho chợ mất khách và mất đi vị trí chiến lược như dự kiến.
Hiện nay chợ rất ế ẩm và nhà nước đang có kế hoạch bán khu chợ cho doanh nghiệp
Đài Loan sự dụng vào việc khác.

Khu du lịch Văn Thánh nằm trên một cù lao 7 ha
nên còn gọi là cù lao 7 mẫu, hiện nay do Công Ty Du Lịch Sài Gòn quản lý. Đây
là khu du lịch nhỏ nhưng được nhiều người biết đến vì 1993-1994 ở đây tổ chức
thi tuyển diễn viên điện ảnh. Vào mùng 5 tháng Giêng âm lịch hằng năm ở đây
thường tổ chức lễ hội mừng chiến thắng Đống Đa (05/01/1789 Kỷ Dậu âm lịch).

Khu du lịch Tân Cảng (Quân Cảng) trước đây khu
vực này là cảng quân sự quan trọng của Mỹ-Ngụy. Sau giải phóng đây là khu vực
của Hải Quân Việt Nam. 1990 khu vực Tân Cảng được chia thành 2 khu: quân sự và
kinh tế cho tàu xuất nhập hàng hóa và kho để các container. Từ cầu Sài Gòn nhìn
xuống chúng ta có thể thấy rất nhiều container xếp chồng lên nhau trong một khu
vực rộng lớn.

CẦU SÀI GÒN

Và bây giờ xe chúng ta đang đi qua cầu Sài Gòn
đây là cửa ngõ quan trọng nối Tp Hồ Chí Minh với các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Cầu
được xây dựng 1959-1961 do công ty C.E.C (Capital Engineering Coporation) thiết
kế và thi công. Nếu dựng cầu này lên thì qúy khách sẽ thấy cây cầu này cao bằng
chiều cao của ngọn núi Bà Đen với chiều dài 987,413 m, rộng 24 m, 32 nhịp,
Trước 5/2000 thì cầu Sài Gòn là cây cầu dài nhất Nam Bộ nhưng hiện nay nó đã
nhường vị trí hàng đầu đó cho cầu Mỹ Thuận, là một công trình được xây dựng để
chào thiên niên kỷ mới.

Thưa qúy du khách! Cầu Sài Gòn được bắc qua sông
Sài Gòn, sông dài trên 230 km bắt nguồn từ cao nguyên Hớn Quảng (Lộc Ninh –
Bình Phước). Một đoạn sông này là ranh giới tự nhiên giữa Tây Ninh và Bình
Phước, một phần nước sông này chảy vào khu vực lòng hồ Dầu Tiếng – Tây Ninh.
Sau đó chảy qua khu vực Bến Cát đến Thủ Dầu Một vào Tp Hồ Chí Minh và hợp với
sông Đồng Nai đổ ra cửa Cần Giờ vịnh Gành Rái, đây là con sông có giá trị kinh
tế lớn về giao thông, đặc biệt có nhiều hệ thống cảng quan trọng: cảng Sài Gòn,
cảng Cát Lái – Tân Cảng

QUẬN 2

Qua khỏi cầu Sài Gòn là địa phận của Quận 2 –
Tp.HCM với diện tích 50km2 gồm An Phú , An Khánh , Thủ Thiêm , Thạnh Mỹ Lợi ,
Bình Trưng . Trước 01/04/1997 khu vực này thuộc Quận Thủ Đức. Quận 2 gồm khu
công nghiệp Cát Lái và khu đô thị mới Thủ Thiêm sẽ là trung tâm mới của thành
phố trong tương lai gần . Với quy hoạch của thành phố thì Quận sẽ là trung tâm
thương mại tài chính của thành phố . Dân số hiện tại khoảng 155 234 người (số
liệu năm 2018)

Hiện có một số công trình trọng điểm đã và đang
khởi công xây dựng tại khu vực Quận 2 :

§  Khu nhà ở và du lịch An Khánh

§  Khu đô thị mới Bình Trưng , Thạnh Mỹ Lợi

§  Khu liên hợp TDTT Rạch Chiếc

§  Khu công nghiệp Cát Lái

§  Tháp truyền hình TPHCM cao 450m với vốn đầu tư 150 triệu USD

§  Hầm vượt sông Sài Gòn tại Thủ Thiêm

§  Đường song hành với quốc lộ 52 ( Kinh phí dự tính là 310 tỷ )

§  Đường cao tốc Bà Rịa – Vũng Tàu .

QUẬN THỦ ĐỨC

Quận Thủ Đức có diện tích 48 Km2, dân số 524.670
người gồm 12 phường. Thị trấn Thủ Đức , Linh Đông, Linh Xuân, Linh Trung, Hiệp
Bình Chánh, Hiệp Bình Phước, Tam Phú, và một phần xã Tân Phú, Hiệp Phú , Phước
Long. Gồm 8 khu quy hoạch trọng điểm :

1.   KCN Bắc Thủ Đức ( KCX Linh Trung ) 400 ha .

2.   KCN Hiệp Bình Phước : 70 ha .

3.   KCN Tam Bình : 50 ha

4.   KCN Bình Chiểu : 28 ha

5.   Khu du lịch ven sông Sài Gòn : 200 ha .

6.   Khu dân cư Hiệp Bình Chánh – Linh Đông : 50 – 70 ha

7.   Khu dân cư mới : 16 ha

8.   Trường Đại học Quốc Gia : 800 ha ( 200 ha ở Thủ Đức )

QUẬN 9

Quận 9 có diện tích 114km2, dân số 263.486 người
, gồm các xã: Long Bình , Long Thạnh Mỹ , Tăng Nhơn Phú, Long Phước, Long
Trường, Phú Hữu, Phước Bình và một phần diện tích của các xã Tân Phú, Phước
Long, Hiệp Phú, Bình Trưng

XA LỘ BIÊN HÒA ( XA LỘ HÀ NỘI )

Con đường chúng ta đang đi vào những năm trước
1975 mang tên xa lộ Biên Hoà được xây dựng 1959-1961 do công ty CEC thiết kế và
thi công đoạn đường này bắt đầu từ chân cầu Sài Gòn kéo dài đến ngã tư Tam Hiệp
với chiều dài 31km , rộng 21m . Những năm này Mỹ và chính quyền Sài Gòn sử dụng
con đường này như một đường băng quân sự dã chiến phòng khi sân bay Tân Sơn
Nhất bị sự cố , đến 1971 Mỹ cho rằng xa lộ thuận lợi cho quân cách mạng đổ bộ
tấn công Sài Gòn nên đã cho xây dựng con lươn giữa tim đường. Sau năm 1975 con
đường này mang tên quốc lộ 52 nhưng chỉ còn lại 10km bắt đầu từ chân cầu Sài
Gòn đến ngã ba Đại Hàn ( hay còn gọi là ngã ba trạm 2 ) đoạn còn lại là Quốc lộ
1. Năm 1984 nhân kỷ niệm 30 năm giải phóng Hà Nội đã đổi tên thành xa lộ Hà Nội
, bắt đầu từ chân cầu Sài Gòn đến ngã tư Thủ Đức , đoạn còn lại là quốc lộ 1.
Ngày nay , hai bên xa lộ đã mọc nhiều khu vực dân cư sầm uất, khu vui chơi giải
trí thể thao , làng đại học và đặc biệt là các khu công nghiệp hiện đại. Đây là
con đường được duy tu , bảo dưỡng tốt nhất suốt chiều dài quốc lộ .

CẦU RẠCH CHIẾC

Xe chúng ta sắp đi qua cầu Rạch Chiếc, cây cầu
này được xây dựng cùng thời với cầu Sài Gòn và xa lộ Biên Hoà ( 1959-1961 ).
Đây là cây cầu nhỏ với chiều dài 148m, rộng 8,5m nhưng là nhân chứng cho một sự
kiện lịch sử quan trọng góp phần là rạng rỡ cho chiến dịch HCM vào 27/04/1975
tại chân cầu này đã xảy ra liên tục năm trận đánh giữa quân giải phóng và quân
lính Sài Gòn bảo vệ cầu ( vì đây là điểm yếu nhất trên xa lộ ). Cuối cùng quân
giải phóng đã chiếm được cầu Rạch Chiếc dành lại đường giao thông quan trọng
cho quân giải phóng tiến vào Sài Gòn, bên cạnh chiến công đó thì 59 chiến sĩ
Cách mạng của ta đã hy sinh tại đây. Hiện nay, Nhà Nước đang có kế hoạch xây
dựng đài tưởng niệm 59 chiến sĩ đã hy sinh 27/04/1975 .

NHÀ MÁY XI MĂNG HÀ TIÊN

Qua khỏi cầu Rạch Chiếc, phía tay phải của quý
khách là quận 9 , phía tay trái là quận Thủ Đức . Nhìn về phía tay trái quý
khách thấy một nhà máy đó là nhà máy xi măng Hà Tiên thuộc địa phận quận Thủ
Đức được xây dựng 1959-1963 với công suất ban đầu là 79.000 tấn / năm, hiện nay
nhờ trang thiết bị hiện đại công suất đã lên đến 1,2 triệu tấn / năm . Sau 1975
nhà nước quản lý, hiện nay nhà máy cung cấp một lượng lớn xi măng cho khu vực
miền Nam và là một trong những cánh chim đầu đàn của ngành xi măng Việt Nam.
Nguyên liệu chính lấy từ nhà máy xi măng Kiên Lương, sau đó chuyên chở bằng sà
lan tới thành phố sản xuất ra xi măng thành phố cung cấp cho thị trường thành
phố và Đông Nam Á .

NHÀ MÁY NHIỆT ĐIỆN THỦ ĐỨC

Nhà máy nhiệt điện Thủ Đức được xây dựng vào năm
1964 với công suất hiện nay là 242MW ( do nhận thêm 2 turbin khí từ Hải Phòng
với công suất 77 MW )

NGÃ TƯ THỦ ĐỨC

Chúng ta đang đến một ngã tư đó là Ngã tư Thủ
Đức, nếu rẽ trái là đi vào chợ Thủ Đức, Sài Gòn WaterPark ….. còn rẽ tay phải
là đi vào bệnh viện quân đội 7A, trường Công An Phước Sơn ,Học việc chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh – Phân viện TPHCM, Đại học Giao thông vận tải .

NHÀ MÁY NƯỚC THỦ ĐỨC

Nhìn bên tay trái quý khách có thể nhìn hai cột
cao đó là nhà máy nước Thủ Đức được xây dựng 1959 với công suất hiện nay là
670.000m3 / ngày. Nhà máy có 8 bể lọc lấy nước từ sông Đồng Nai tại khu vực Hoá
An cung cấp nước cho toàn thành phố. Và hai cột này là hai cột thuỷ áp nhằm
điều hoà áp lực trong các đường ống nước như vào ban đêm tất cả các ống nước
được khoá thì áp lực thì áp lực trong các đường ống rất lớn. Hai cột này có
nhiệm vụ làm giảm áp suất , tránh tình trạng bị vỡ ống nước . Hiện nay chúng ta
đang vay vốn tại ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) khoảng 65 triệu USD để thay
đổi toàn bộ các ống dẫn nước chính từ 1,8m lên 2,4m và mở rộng nhà máy nước đưa
công suất cung cấp nước của nhà máy lên 1 triệu m3 /ngày .

CÔNG TY NƯỚC GIẢI KHÁT COCA-COLA

Kế bên nhà máy nước Thủ Đức là công ty nước giải
khát Coca-Cola với khả năng sản xuất 3.500két / ngày và công suất tối đa 40
triệu lít / năm . Hiện nay công ty này là doanh nghiệp có 100% vốn nước ngoài ,
chiếm lĩnh thị trường nước ngọt ở TPHCM và cả nước . Nhà máy trước đây là công
ty liên doanh giữa Công ty nước giải khát Chương Dương và Công ty Indochina chi
nhánh PBC ( Pacific Beverages Company ) đặt tại Singapore , chính thức ký hợp
đồng vào tháng 07/1993 với tổng đầu tư là 4 triệu USD . Nhà máy PBC nằm trên
một lô đất khoảng hai ha tại Thủ Đức và có ba dây chuyền sản xuất : 1 vô chai
thuỷ tinh , 1 vô lon , 1 vô chai nhựa PET . Ngoài ra , công ty là một trong
những đơn vị tài trợ cho nhiều loại hình hoạt động ở TPHCM và cả nước nhất là
về TDTT .

NGÃ BA TRẠM HAI ( XA LỘ ĐẠI HÀN )

Trước mặt quý du khách là ngã ba trạm 2, con
đường rẽ trái là xa lộ Đại Hàn ( hay còn gọi là xa lộ vành đai ) đây là con
đường được xây dựng 1963 do chính quyền Sai Gòn làm để giảm bớt lưu lượng xe
chở hàng từ các tỉnh miền Trung về miền Tây và ngược lại, không phải đi xuyên
qua TPHCM . Con đường này với tổng chiều dài 40km từ ngã ba trạm 2 đến An Lạc –
Bình Chánh , được Mỹ thiết kế và công binh Đại Hàn thi công nên mới gọi là xa
lộ Đại Hàn. Sau 1968 Mỹ sợ hãi và lập tức cho xây dựng con đường này như một
vành đai bảo vệ ngăn cách giữa Sài Gòn, Tân Sơn Nhất với cái nôi Cách mạng Củ
Chi nên hiện nay trên bản đồ con đường mang tên là đường Trường Sơn . Trong
tương lai , dự án xây dựng con đường xuyên Á Bangkok – PhnômPênh – Mộc Bài –
Quốc lộ 22 – Xa lộ Đại Hàn – Quốc lộ 51 – Vũng Tàu sẽ được thực hiện

Cây Kiểng:Xuất hiện ở Việt Nam khoảng TK 12,13 và cho đến nay vẫn giữ được vị trí riêng của nó. Ở Nam Bộ, nhiều địa phương trồng hoa – hoa kiểng nổi tiếng như Sa Đéc (Đồng Tháp), Cái Mơn (Bến Tre), Gò Vấp.

Ngày xưa khi các cụ đến tuổi “tóc đã thưa, răng
đã mòn” thường tìm đến thiên nhiên để hưởng nhà với một góc sân nhỏ, các cụ
chơi hòn nam bộ, trồng hoa hoặc chậu kiểng (các loại cây thuộc giống cổ thụ
được hãm trong các chậu, tạo dựng lại cái hùng vĩ của thiên nhiên trong một
khoảng không gian thu hẹp). Riêng lối chơi kiểng thế, các cụ thường ghép ý
nghĩa các nhánh, các đoạn của cây với lễ giáo đạo đức cùa xã hội thời bấy giờ
nhằm mục đích dạy dỗ con cháu tính kiến nhận, siêng năng, biết điều hay lẽ
phải. Do đó cách chơi cây kiểng nhìn vào đó có thể đoán biết ít nhiều về gia
thế của chủ nhân.

Một cây kiểng có giá trị phải hội đủ 4 yếu tố
bằng một hình, hai thế, ba chi, bốn điệp tượng trưng cho Thiên đạo, người đạo,
thần đạo và đạo làm con. Theo lời kể của các cụ, cây kiểng được uốn sửa thành 3
tầng, 4 đoạn thân và 5 chùm nhánh là để tượng trưng cho Nam nhi với Tam cương,
Ngũ thường và với nữ nhi là tam Tòng – Tứ Đức. trong đó, các tầng, đoạn lại ngã
theo 4 hướng gọi là Tứ trụ, theo luật âm dương điều hòa thể hiện cho vũ trụ
nhân sinh.

Về chủng loại cây cũng mang ngụ ý sâu sắc: Cây Mai uốn theo hình chữ “Nữ”, cây
Tùng uốn theo hình chữ “Thập”, cả 2 cây ghép lại gọi là:

vô nữ bất thành mai

Vô nữ bất thành tùng”
Ngoài ra còn có các thế: ”người bay và người hạt, thế “phụ tử”…

Ngày nay thú chơi kiểng không còn dành cho tuổi
già. Có nhiều nghệ nhân ở tuổi thanh niên và trung niên. Mỗi độ xuân về, các
giang hàng bán cấy khế kiểng mọc ra như nấm với đủ các loài hoa đua nhau khoe
sắc. riêng các loại cây uốn thế không chỉ cứng nhắc theo nguyên tắc. nghệ thuật
chơi kiểng ngày nay, dù để thưởng thức hay kinh doanh, đã trởi thành một nhu
cầu văn hóa của người Việt Nam.

Khu Du Lịch Suối Tiên

Khu DL Suối Tiên cách trung tâm TP. Hồ Chí Minh
19km. Tháng 6 năm 1993 đồ án quy hoạch được văn phòng kiến trúc sư trưởng thành
phố phê duyệt và được UBND TP.HCM cho phép thực hiện KDL Suối Tiên rộng 18ha
với kiến trúc Á Đông.

Lịch Sử Hình Thành

Ngược dòng thời gian trở về với một địa danh
huyền thoại, một vùng đất xưa kia hoang hóa có con suối thiên nhiên chảy qua
nay đã vươn mình trở thành miền đất Tứ Linh

Trong ký ức của những người đầu tiên đến khai
khẩn đất lập lâm trại, vẫn còn lưu giữ hình ảnh một vùng đất hoang sơ giữa bộn
bề đầm lầy, cây cỏ. Ông Đinh Văn Vui – Chủ tịch hội đồng quản trị, Tổng
Giám Đốc Tập Đoàn Suối Tiên nhớ lại: “Tôi còn nhớ mãi ngày ấy, vào năm 1987,
khi tôi đến đây khai khẩn đất lập lâm trại, Suối Tiên vẫn còn là đồng ruộng,
đầm lầy, rừng rậm và đã từng là căn cứ địa cách mạng thời kháng chiến chống Mỹ…
Suối Tiên, cái tên nghe sao lạ quá! Tôi thử tìm hiểu mới biết Suối Tiên bắt
nguồn nối tiếp suối Lồ Ồ (huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương ngày nay) chảy ngầm
trong lòng đất hàng chục km qua xa lộ Hà Nội và trồi lên mặt đất này, để rồi
tiếp tục xuôi dòng đổ ra sông Đồng Nai. Lúc đó, Suối Tiên còn cả một khu rừng
đặc hữu, một khung cảnh thiên nhiên hiếm hoi còn sót lại. Tại đây còn có một
miếu thờ bảy cô gái ở ven suối có cùng tuổi rồng, tình cờ đến đây tắm và qui
tiên ở đoạn suối sâu. Dân trong vùng kể lại : “Bảy cô gái rất linh thiêng nên
bà con thường xuyên nhang khói, phụng thờ”. Phải chăng bảy cô gái đã quy tiên
trở nên linh thiêng thành tiên độ cho đời nên suối này có tên gọi là Suối Tiên
và được lưu truyền đến ngày nay? Từ khung cảnh thiên nhiên và truyền thuyết ấy,
ý tưởng xây dựng nơi đây thành một khu du lịch tầm cỡ quốc gia nung nấu tôi
suốt ngày đêm…”

“Lâm trại Suối Tiên” đã trở thành tiền đề cho
một khu du lịch tầm cỡ trong tương lai. Quá trình sản xuất của lâm trại là quá
trình tích lũy vốn liếng cũng như điều tra, nghiên cứu thăm dò để xây dựng khu
du lịch. Diện tích ban đầu của lâm trại chỉ có 2 ha đất hoang hóa, chỉ là một
trại nuôi trăn nhỏ. Các năm tiếp theo, lâm trại tổ chức chăn nuôi theo lối công
nghiệp xuất khẩu, đồng thời nuôi cả các loài thú quý hiếm và trồng các loại cây
ăn trái. Từ năm 1989 đến năm 1991, sản xuất gỗ xẻ xuất khẩu và sau đó sản xuất
hàng thủ công mỹ nghệ cao cấp. Sản phẩm của lâm trại Suối Tiên được khách hàng
trong và ngoài nước tín nhiệm. Đặc biệt, lâm trại Suối Tiên còn được tổ chức
CITES thế giới chấp thuận và bảo vệ quyền chăn nuôi cũng như xuất khẩu các loại
động vật bò sát. Có lúc trại trăn ở đây lên đến10.000 con, trong đó có những
con trăn vàng đặc biệt quí hiếm nên có người gọi lâm trại Suối Tiên là
trại”Trăn Vàng Suối Tiên”. Cái tên STF (Suối Tiên Farm) cho đến nay vẫn còn
được lưu giữ trên logo của công ty như một kỷ niệm, một dấu ấn không thể quên
về bước đầu khởi nghiệp xây dựng Suối Tiên.

Năm 1992, cùng với sự phát triển kinh tế cả nước
nói chung và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, việc xây dựng một khu du lịch tầm
cỡ để phục vụ đời sống văn hóa, tinh thần của người dân trở thành một nhu cầu
thiết yếu. Từ đây, dự án xây dựng Du Lịch Văn Hóa Suối Tiên đã trở thành hiện
thực, các hạng mục công trình lần lượt được xây dựng.

Tháng 02 năm 1993, sáng lập công ty TNHH Lâm Sản Mỹ Nghệ Suối Tiên. Ông Đinh
Văn Vui được bầu làm Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Tổng Giám Đốc.

Ngày 02 tháng 09 năm 1995, nhân kỷ niệm lễ Quốc
khánh nước CHXHCN Việt Nam, Du Lịch Văn Hóa Suối Tiên chính thức mở cửa đón du
khách.

Chặng đường phát triển

Từng chặng đường xây dựng và phát triển DLVH
Suối Tiên gắn liền với sự chuyển đổi cơ cấu quản lý kinh tế của cả nước trong
thời kỳ đổi mới, dù phải đối diện với rất nhiều khó khăn cũng như sự cạnh tranh
gay gắt của cơ chế thị trường, DLVH Suối Tiên vẫn giữ vững định hướng và quyết
tâm phát triển thành trung tâm du lịch tầm cỡ khu vực.

Quá trình hình thành và phát triển của DLVH Suối Tiên cho đến nay, bên cạnh sự
đổi mới liên tục qua việc khánh thành hàng loạt những công trình, mô hình tham
quan, vui chơi, giải trí, còn có những bước ngoặc đáng ghi nhớ:

§  Năm 1993: khởi công xây dựng.

§  Ngày 02 tháng 09 năm 1995: mở cửa đón khách tại cổng Tây Thiên Môn (cổng số1 ). Lâm trại Suối Tiên chính thức trở thành DLVH Suối Tiên.

§  Năm 1997: mở cổng Đinh Tiên Môn (cổng số 2) và
khánh thành quảng trường Đinh Bộ Lĩnh, khánh thành tượng đài Vua Hùng làm cột
mốc đánh dấu cho định hướng phát triển du lịch văn hóa, du lịch về nguồn. Đến
năm 2003, tượng đài Vua Hùng được nâng cấp thành Đền Thờ Vua Hùng. Từ đây, lễ
Giỗ Quốc Tổ Hùng Vương được hình thành và định kỳ tổ chức vào ngày 10 tháng 3
âm lịch hàng năm, trở thành lễ hội về nguồn tiêu biểu, đặc sắc của Suối Tiên.

§  Năm 1997: khánh thành Phụng Hoàng Cung và Tàu Lượn Siêu Tốc.

§  Năm 2000: khánh thành cổng Thiên Tiên Môn (cổng số 3), quảng trường Thiên Đăng Bảo Tháp và hàng loạt các công trình, mô hình vui chơi giải trí khác.

§  Năm 2002: khánh thành Biển Tiên Đồng một kỳ quan
nhân tạo – một đại dương trong lòng thành phố. Công trình đặc biệt có một không
hai này đã đưa Suối Tiên tiến đến tầm cỡ của công nghệ giải trí hiện đại, tiên
tiến bậc nhất Đông Nam Á .

§  Năm 2004: Lễ Hội Trái Cây truyền thống Suối Tiên
qua 7 năm tổ chức đã được nâng cấp và lấy tên gọi chính thức là “Lễ Hội Trái
Cây Nam Bộ“, trở thành sự kiện Văn hóa – Du lịch tiêu biểu của TP. HCM. Sự kiện
này giúp cho Suối Tiên được đông đảo du khách biết đến như một miền đất của
những lễ hội văn hóa, lễ hội về nguồn độc đáo, đặc sắc, kết hợp hài hòa cả hai
yếu tố truyền thống và hiện đại.

§  Năm 2006: Khánh thành công trình văn hóa tâm linh Long Hoa Thiên Bảo.

§  Năm 2007: Khánh thành Đại Cung Kim Lân Sơn Xuất Thế.

§  Năm 2008: khánh thànhBí Mật Càn Khôn Vũ Trụ CineMax 4D, Chuỗi Nhà Hàng Long Phụng.

§  Năm 2009: Khánh thành Đại Cung Phụng Hoàng Tiên,Đại Cung Lạc Cảnh Tiên Ngư, Tháp Du Hành Vũ Trụ.

§  Năm 2010 xây dựng biển Ngọc Nữ ngay bên cạnh Biển Tiên Đồng với hồ tạo sóng hiện đại.

Đầu tư công nghệ giải trí mới hấp dẫn
“Laser Zone” và Đấu trường Bò Tót.

Ngày 19 tháng 11 Khánh thành thánh tượng Quán Thế
Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn một công trình mỹ thuật đặc sắc lớn nhất Việt Nam, tọa
lạc tại “Thiên Cảnh Bồng Lai Lưu Ly Thất Bảo” một quần thể kiến trúc hoành
tráng đậm nét dân tộc.

Với sự ra đời của hàng loạt công trình mô hình
giải trí, DLVH Suối Tiên đã hoàn thiện quy trình khép kín “Du lịch – Giải trí –
Thư giãn – Ẩm thực”, góp phần nâng Suối Tiên lên tầm phát triển mới, đa dạng và
hiện đại.

Trước cổng Khu Du Lịch Suối Tiên Quý Khách thấy
có một con cóc ba chân khổng lồ. HDV xin phép sơ lược về truyền thuyết về con
cóc ba chân này

Thần tài lộc cóc 3 chân

Theo truyền thuyết của người Hoa, thì Thiềm Thừ
vốn là yêu tinh, được tiên ông Lưu Hải thu phục, theo Tiên ông Lưu Hải để tu
hành nên không làm hại nhân gian như trước, mà ngược lại dùng phép thuật của mình
đi khắp nhân gian để nhả tiền giúp đỡ mọi người, để thể hiện sự phục thiện, sự
cải tà quy chính với tiên ông Lưu Hải. Vì vậy Thiềm Thừ được người Hoa trân
trọng như một trong những con vật linh thiêng trong phong thủy về tài lộc và
yên lành. Nó thường ngậm đồng tiền cổ trong miệng, tượng trưng cho việc cóc
mang tài lộc vào nhà. Người Hoa từ xưa tới nay đều tin rằng nếu họ nhà có ở
dưới giếng, ao, hồ sau nhà bạn, thì gia đình bạn có thể tránh khỏi những nguy
hiểm rình rập. Như vậy cóc biểu tượng cho điềm lành. Đã vậy đây lại là cóc tài
lộc nên giữ trân trọng ở hàng thứ 2 sau vật phong thủy số 1 là Tỳ Hưu.

Do đó Thiềm Thừ là biểu tượng của tài lộc và yên
lành, là vật phẩm may mắn trong công việc làm ăn, sự bình an cho gia đạo. Nên
mọi người thường hay dùng để biến xấu thành tốt trong phong thủy nhà cửa, hoặc
để tặng bà con, bạn bè thân hữu khi có dịp hỷ sự.

Nhưng khác với người Hoa người Việt thường trưng
bày Thiềm Thừ trên bàn thờ Thổ Địa, Thần Tài ngậm đồng tiền cổ quay ra ngoài để
kiếm tài lộc, tối quay đầu vào trong để đem tài lộc vô nhà. Thực ra những con
vật thiêng liêng trong phong thủy, nguồn gốc là của người Hoa, là phong tục tập
quán lâu đời của mọi người dân xứ sở này. Vì vậy ta cần phải theo những trải
nghiệm của họ trong việc sử dụng những con vật thiêng liêng vào phong thủy nhà
cửa, sao cho có hiệu quả thiết thực nhất và tránh sự phản tác dụng.

Trong đó việc an vị Thiềm Thừ ở vị trí nào trong
nhà sao cho có hiệu quả, thì chúng ta đã biết như trên, tốt nhất là tại 2 góc
của chính phía trên trong phòng khách, và đầu của Thiềm Thừ đang ngậm đồng tiền
cổ quay vô nhà, như thế Thiềm Thừ đang nhảy vô nhà để mang của cải tài lộc vô
nhà chủ.

Tương tự như vậy chúng ta đặt Thiềm Thừ ở của
hàng, ở công ty, nhưng phải nhớ là đầu của Thiềm Thừ phải quay vô phía trong
cửa hàng hoặc công ty. Cũng có thể đặt Thiềm Thừ nằm ở dưới gầm bàn, bên trong
tủ, nhưng đầu phải qua vô trong. Tất nhiên, không ai làm ngược cách trên, là
đặt đối diện với cửa chính, chẳng hạn như đặt Thiềm Thừ tại trang Thổ Địa –
Thần Tài, đầu quay ra ngoài cửa chính với miệng đang ngậm đồng tiền cổ. Đây là
biểu tượng cho sự hao tài, như vậy Thiềm Thừ thay vì tài lộc vô nhà cho gia
chủ, thì ngược lại mang tài lộc của gia chủ ra hết ngoài.

Nhưng Thiềm Thừ thế nào mới được linh khí?

Nếu làm bằng bột đá được nghiềm nát và trộn với
keo đặc biệt và cho vào khuôn đúc, để sản xuất hàng loạt theo công nghệ thay vì
thủ công tuy hình rất đẹp và giá thành rẻ hơn rất nhiều so với sản xuất thủ
công.

Nhưng linh khí của loại tượng bột đá này rất ít
vì đá thiên nhiên đã bị nghiền nát, đã phá vỡ linh khí đã tích tụ hàng triệu
năm, chỉ còn lại một ít linh khí mà thôi.

Có những hình tượng Thiềm Thừ bằng đồng, Thuộc
loại hành Kim, trong Hạ Nguyên Vận 8 thuộc Bát bạch( hành Thổ) này được “ tương
sinh”. Vì Thổ sinh Kim. Nhưng linh khí không đầy đủ bằng đá thiên nhiên, vì
đồng đã được nung chảy để đổ vào khuôn đúc.

Hơn nữa khi đến Hạ Nguyên Vận 9 thuộc Cửu
Tử(hành hỏa): Từ năm 2024 đến năm 2043(chu kỳ 20 năm). Mà hỏa thì khắc Kim, nên
vật liệu bằng đồng(hành Kim) đến đầu Hạ Nguyên Vận 9, tức năm 2024 thì hình
tượng bằng đồng(hành kim) người ta sẽ không sử dụng nữa. Thay vào đó người ta
sẽ sử dụng hình tượng bằng đá thiên nhiên để có thời gian lâu dài, và ở Hạ
nguyên Vận 9 thuộc Cửa Tử (hành Hỏa) thì được “tương sinh” , vì Hỏa sinh Thổ.
Và hơn nữa đá thiên nhiên thuộc hành Thổ, còn giữ trọn vẹn linh khí của Trời
Đất qua hàng triệu năm, và được sử dụng vào cả Hạ nguyên Vận 8 và Vận 9(2004
đến năm 2043) được “ Tương vượng và tương sinh” rất phù hợp, vì vậy việc sử
dụng vật phẩm phong thủy đá thiên nhiên là cách lựa chọn tốt nhất.

Thiềm Thừ – Cóc Tài lộc

Chỉ đứng sau Tỳ hưu, Thiềm Thừ hay Cóc ba chân
(Cóc tài lộc) được xem là linh vật phong thủy chiêu tài, tịch tà và hộ gia.

Cóc vàng mời gọi tiền tài

Thiềm Thừ ngậm tiền thường có thể nhìn thấy gần
máy tính tiền, két sắt, nơi tiếp khách, bàn làm việc và văn phòng tại các nước
phương Đông.

Riêng nếu có dịp du lịch sang Trung Quốc, bạn sẽ
thấy trong gia đình Trung Quốc, nhà ai cũng chưng Tỳ Hưu để chiêu tài khí bốn
phương, tạo may mắn cho gia chủ về tài lộc, công danh và sức khỏe. Tuy nhiên,
khi được chủ nhà mời nước tại phòng khách, nếu để ý một chút ở phía cửa ra vào
bạn sẽ thấy hai chú cóc ngậm đồng tiền cổ đang quay đầu vào nhà.

Nhìn kỹ hơn, bạn sẽ thấy trên đầu cóc có hình
tròn, bên trong là hình tựa như hai con cá quay đầu lại với nhau (gần giống
vòng tròn Bát Quái).

Trên lưng cóc có những nốt sần đặc biệt gọi là
chòm sao Đại Hùng. Cóc ngồi trên giá tài lộc, mang một đồng xu trên miệng và
hai bên sườn đeo hai xâu tiền cổ.

Người Trung Quốc gọi đây là Cóc tài lộc hay Cóc
ba chân, tên là Thiềm Thừ. Đây là vật phẩm phong thủy đứng thứ 2, sau Tỳ Hưu,
được cho là mang lại điềm lành và tài lộc. Lúc quay đầu cóc vàng ra nói: “đi ra
ngoài kiếm tiền đi”, còn khi quay đầu vào, nói: “đem tiền về nhà nhé”!

Truyền thuyết cóc ba chân

Theo truyền thuyết cóc ba chân hay cóc vàng, có
thể nhả ra vàng, là vật vượng tài.

Tương truyền ngày xưa có một tu sĩ tên là Lưu
Hải đã dùng kế để thu phục cóc vàng yêu quái và thành tiên. Lưu Hải vốn là đệ
tử của Lã Động Tân (một trong Bát Tiên), thích chu du tứ hải, hàng yêu phục ma,
bố thí tạo phúc nhân thế.

Lúc Lưu Hải hàng phục được con yêu tinh cóc, nó đã bị thương và cụt mất một
chân, cho nên sau này cóc vàng chỉ có ba chân. Từ đó, cóc vàng thuần phục dưới
trướng của Lưu Hải, chuyên nhả ra tiền vàng để giúp cho dân nghèo và được gọi
là CHIÊU TÀI THIỀM (cóc vàng mời gọi tiền tài ).

Tạo hình của cóc vàng rất nhiều, thường là ngồi
trên thỏi vàng, trên lưng của cóc vàng đeo xâu tiền vàng, thân thể béo tròn,
toàn thân toát lên vẻ phú quý sung túc.

Điều này có ngụ ý: “Thổ bảo phát tài, tài nguyên
quảng tiến” (nhả ra của quý làm cho chủ nhân phát tài, có cóc vàng trong nhà
tiền bạc cứ lũ lượt theo vào), cho nên trong nhân gian có câu: ” đắc kim thiềm
giả tất phú quý” (người có được cóc vàng chắc chắn sẽ giàu to).

Người xưa cũng lưu truyền câu “thiềm cung triết
quế” dùng để ví von với người thi đỗ tiến sĩ, theo truyền thuyết trong Nguyệt
Cung có con Cóc ba chân vì thế mà người ta gọi Nguyệt Cung là Thiềm Cung (nghĩa
hán việt: thiềm là cóc ).

Thiềm Thừ xuất hiện vào đêm trăng tròn ở gần nhà ai, thì đó là sự báo tin gia
chủ nhà ấy sẽ nhận được sự giàu có, phú quý. Vì vậy, Thiềm Thừ được người đời
tôn xưng là con vật quý, biểu tượng cho vượng tài.

Trình tự “khai quang điểm nhãn” cho Thiềm Thừ:
1. Chọn một ngày đẹp, tắm rửa sạch cho Thiềm Thừ. 2. Lấy nửa thùng nước giếng,
lấy tiếp nửa thùng nước mưa. 3. Đổ vào đồ chứa đã chuẩn bị từ trước, đồ chứa đó
phải sạch sẽ. 4. Đặt Thiềm Thừ vào nước ngâm 3 ngày 3 đêm. 5. Sau khi lấy ra dùng
khăn bông sạch lau khô Thiềm Thừ. 6. Lấy một chút nước chè vẩy vào mắt Thiềm
Thừ – đây còn gọi là “khai quang điểm nhãn”. 7. Khai quang hoàn tất.

Thiềm Thừ khi “thỉnh” về cũng cần làm thủ tục
“khai quang điểm nhãn” tương tự như Tỳ Hưu, tuy nhiên vẫn có chút khác biệt.

Thiềm Thừ thông nhân tính, vì thế khi khai quang
tốt nhất chỉ nên có mình gia chủ. Thiềm Thừ sau khi được khai quang, nhìn thấy
ai đầu tiên sẽ mãi mãi “phù hộ” cho người đó. Vì thế, có người dùng rất tốt
nhưng đem tặng cho người khác thì lại không linh là vì lí do này.

Có ý kiến cho rằng nên chưng Thiềm Thừ trong
phòng khách, buổi sáng nên quay đầu Thiềm Thừ ra phía cửa, buổi tối thì quay
ngược đầu cóc vào nhà. Điều này hàm ý “đớp” tiền ở ngoài rồi “nhả” vào nhà
mình.

Cách khai quang điểm nhãn cho Thiềm Thừ

1.   Chọn một ngày đẹp, tắm rửa sạch cho Thiềm Thừ.

2.   Lấy nửa thùng nước giếng, lấy tiếp nửa thùng nước mưa.

3.   Đổ vào đồ chứa đã chuẩn bị từ trước, đồ chứa đó phải sạch sẽ.

4. Đặt Thiềm Thừ vào nước ngâm 3 ngày 3 đêm.

5.    Sau khi lấy ra dùng khăn bông sạch lau khô Thiềm Thừ.

6.    Lấy một chút nước CHÈ vẩy vào mắt Thiềm Thừ – đây còn gọi là khai quang điểm nhãn.

7.    Thiềm Thừ thông nhân
tính, vì thế khi khai quang tốt nhất chỉ có mình ở đó, Thiềm Thừ sau khi khai
quang người đầu tiên nó nhìn thấy là bạn sẽ mãi mãi “phù hộ“ bạn. ( vì thế có
lúc người khác dùng rất tốt nhưng tặng bạn lại không linh là vì lí do này!).

NGHĨA TRANG LIỆT SĨ THÀNH PHỐ


Nằm bên tay phải chúng ta là nghĩa trang liệt sĩ thành phố, đây là
nơi yên nghỉ của các chiến sĩ hy sinh trong hai cuộc trường chinh chống Pháp,
chống Mỹ và trên chiến trường Campuchia. Nằm trên ngọn đồi không tên với diện
tích 3 ha được xây dựng từ 1984 đến 04/1987 thì hoàn thành do kiến trúc sư Vũ
Đại Hải thiết kế .

Với hình ảnh người mẹ Việt Nam cao sừng sững ôm trọn 10.000 đứa
con thân yêu đã ngã xuống cho Tổ Quốc. Điêu khắc gia Nguyễn Hải đã gửi tặng cho
người dân TPHCM .

CÔNG VIÊN VĂN HÓA LỊCH SỬ ĐỀN HÙNG

Qua nhiều ngàn năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam có rất nhiều di
tích lịch sử và công trình văn hóa quý báu tiêu biểu cho truyền thống đấu tranh
kiên cường của các thế hệ người VIệt Nam để bảo tồn và phát triển bản sắc dân
tộc.

Thế nhưng các di tích lịch sử và công trình văn hóa của đất nước
nằm trải dài từ Bắc đến Nam không phải ai cũng có điều kiện đến được; cho nên việc
xây dựng và thể hiện những cột mốc lịch sử và văn hóa dân tộc ở một địa điểm
tương đối tập trung là rất cần thiết cho việc giáo dục, phát huy truyền thống
dân tộc và tạo điều kiện giao lưu văn hóa trong nước, giới thiệu văn hóa Việt
Nam với nước ngoài.

Dự án Công viên Lịch sử – Văn hóa Dân tộc tại thành phố Hồ Chí
Minh với mục tiêu trên đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quỵết định số
298/TTg ngày 08-5-1997. Đây là một công viên văn hóa có chọn lọc và sinh động
những truyền thuyết, những sự kiện lịch sử và công trình văn hóa tiêu biểu của
dân tộc; có làng văn hóa các dân tộc giới thiệu những kiến trúc, lễ hội truyền
thống, trò chơi, phong tục tập quán của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; có khu
vui chơi giải trí, khu bảo tồn thiên nhiên, khu du lịch sinh thái, làng hoa
kiểng … phù hợp với sự phát triển phong phú, đa dạng về kinh tế, văn hóa, khoa
học kỹ thuật của Thành Phố Hồ Chí Minh.

Mục đích xây dựng

Căn cứ Quyết định số 298/TTg ngày 08/05/1997 của Thủ tướng Chính
phủ, mục tiêu xây dựng Công viên lịch sử văn hoá dân tộc được xác định :

1.   Làm điểm tựa giáo dục lịch sử truyền thống dân tộc cho nhân dân nhất
là cho thế hệ trẻ ( ở trong nước và đồng bào ở nước ngoài về thăm quê hương),
góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

2.   Tạo điều kiện giao lưu văn hóa trong nước và giới thiệu văn hoá Việt
Nam với nước ngoài, tăng cường tính phong phú, đa dạng trong đời sống tinh thần
của nhân dân Thành phố.

3.   Tạo một cảnh quan thiên nhiên thoáng rộng; góp phần cân bằng sinh
thái cho môi trường của Thành phố; giới thiệu có chọn lọc những sự kiện lịch và
công trình văn hoá tiêu biểu của dân tộc; có làng văn hoá các dân tộc giới thiệu
những kiến trúc, lễ hội truyền thống, phong tục tập quán, trò chơi dân gian
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; có khu vui chơi giải trí, khu bảo tồn
thiên nhiên, khu du lịch sinh thái, làng hoa kiểng … phù hợp với sự phát triển
phong phú và da dạng của thành phố Hồ Chí Minh.

Địa điểm

Cách trung tâm Thành phố 27km về hướng Đông Bắc, gần các khu công
nghiệp,thương mại, dịch vụ của vùng tam giác thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình
Dương và tỉnh Đồng Nai.

Diện tích đất sử dụng 408 ha, trong đó 381 ha thuộc quận 9, Tp.

HCM và 27 ha thuộc huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương; được quy hoạch thành 4 khu
chức năng.

Khu Cổ Đại

Diện tích 84,15 ha

§  Khu Cổ Đại có diện tích (84,15ha) tái hiện thời cổ đại Thượng cổ – Văn minh sông Hồng, thời
Hùng Vương cho đến Ngô Quyền (938 sau công nguyên) với các nội dung xây dựng chính:

§  Khu tưởng niệm các vua Hùng

§  Khu tái hiện thời đại Văn hóa Sơn Vi; Hòa Bình; truyền thuyết về người giao chỉ.

§  Khu tái hiện sinh hoạt Văn hóa Bắc Sơn, Phùng Nguyên.

§  Khu tái hiện văn minh sông Hồng, nước Văn Lang.

§  Khu thể hiện,các truyền thuyết: Lạc Long Quân – Âu Cơ, Sơn Tinh Thủy Tinh, sự tích Trầu
Cau,Bánh Dày Bánh Chưng, Thánh Gióng …

Khu tái hiện tình cảnh nhân dân và các cuộc khởi nghĩa từ Hai Bà
Trưng, Bà Triệu, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan, Khúc Hạo đến Ngô Quyền.

Quan trọng nhất trong khu vực này là Khu tưởng niệm các Vua Hùng
với công trình trung tâm là Đền tưởng niệm các Vua Hùng. Đây là một trong 12
công trình và chương trình trọng điểm của Tthành phố Hồ Chí Minh đã được triển
khai xây dựng với mục đích là:

Nơi tôn nghiêm để tổ chức Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Nơi thiêng liêng để nhân dân đến tưởng niệm, vọng bái tổ tiên,hướng về cội nguồn.

Nơi tổ chức các lễ hội, sinh hoạt văn hóa, khơi dậy tình cảm về nguồn, lòng tự hào dân tộc.

Khu Trung Đại

Diện tích 29,19 ha

Khu Trung Đại có diện tích (29,19ha) tái hiện các chiến công và
những sự kiện lịch sử thời Đinh, Lê, Lý, Trần đến thời Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn
(Thế kỷ 10 – thế kỷ 18) với các nội dung xây dựng chính:

Khu vực tái hiện thời Đinh – Lê -Lý

Khu vực tái hiện thời Nhà Trần

Khu vực tái hiện triều đại Hồ Quý Ly

Khu vực tái hiện thời Lê Lợi – Nguyễn Trãi

Khu vực tái hiện thời Mạc – Trịnh – Nguyễn

Khu vực tái hiện thời Tây Sơn

Khu Cận – Hiện Đại

Khu Cận – Hiện Đại có diện tích 35,92ha tái hiện từ thời nhà
Nguyễn đến thời đại Hồ Chí Minh, với các nội dung xây dựng chính:

Khu vực tái hiện thời nhà Nguyễn từ năm 1802 – 1858

Khu vực tái hiện thời Pháp thuộc từ 1858 – 1930

Khu vực tái hiện thời kỳ đấu tranh giành độc lập từ khi Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời

Khu vực tái hiện cuộc đời và sự nghịêp của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Khu quảng trường Độc lập và tượng đài Thống nhất

Khu Sinh Hoạt Văn Hóa

Khu sinh hoạt văn hóa có diện tích (245,74 ha) bao gồm Cù lao Bà
Sang với các khu sinh hoạt văn hóa, vui chơi giải trí theo chuyên đề.

§  Bảo tàng lịch sử tự nhiên thành phố Hồ Chí Minh

Là một bảo tàng trong hệ thống Bảo tàng thiên nhiên Việt Nam được
Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể tại Quyết định số 86/2006/QĐ-TTg ngày
20/4/2006 và được triển khai đầu tư xây dựng tại thành phố Hồ Chí Minh.

§  Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam và Khu rừng Trường Sơn

Giới thiệu các nét văn hóa đặc trưng của 54 dân tộc trong đại gia
đình dân tộc Việt Nam. Tổ chức giao lưu văn hóa và sinh hoạt lễ hội của các dân
tộc. Tái hiện rừng Trường Sơn tổ chức các loại sinh hoạt vui chơi giải trí cho
thanh thiếu niên nhằm giáo dục lòng yêu nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

§  Công viên Điện ảnh

Giới thiệu nền điện ảnh Việt Nam từ ngày mới thành lập đến nay. Tổ
chức trường quay và các dịch vụ về điện ảnh phục vụ các đoàn làm phim trong và
ngoài nước.

§  Khu Làng hoa – du lịch tắm bùn khoáng

Giới thiệu chuyên ngành hoa kiểng của thành phố, trưng bày, giao
dịch, mua bán các giống hoa kiểng và hoa quả nhiệt đới Việt Nam. Tổ chức khu
nghĩ dưỡng với loại hình tắm bùn khoáng nóng

§  Khu Công viên mạo hiểm và quảng trường Hòa Bình

§  Khu du lịch sinh thái Cù lao Bà Sang

Xây dựng trên Cù lao Bà Sang với các loại hình du lịch sinh thái,
du lịch nhà vườn và các loại hình vui chơi giải trí đặc thù vùng sông nước Nam bộ.

§  Khu vui chơi giải trí dọc Sông Đồng Nai

Tổ chức các loại hình vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng, dịch vụ… phục vụ khách tham quan, du lịch.

§  Khu bảo tồn chùa Hội Sơn thuộc hệ phái Phật giáo Bắc Tông

§  Khu bảo tồn chùa Bửu Long thuộc hệ phái Phật giáo Nam Tông

Khu Cận – Hiện Đại

Diện tích 35,92 ha

Khu Cận – Hiện Đại có diện tích 35,92ha tái hiện từ thời nhà
Nguyễn đến thời đại Hồ Chí Minh, với các nội dung xây dựng chính:

Khu vực tái hiện thời nhà Nguyễn từ năm 1802 – 1858

Khu vực tái hiện thời Pháp thuộc từ 1858 – 1930

Khu vực tái hiện thời kỳ đấu tranh giành độc lập từ khi Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời

Khu vực tái hiện cuộc đời và sự nghịêp của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Khu quảng trường Độc lập và tượng đài Thống nhất

Khu Sinh Hoạt Văn Hóa

Khu sinh hoạt văn hóa có diện tích (245,74 ha) bao gồm Cù lao Bà
Sang với các khu sinh hoạt văn hóa, vui chơi giải trí theo chuyên đề.

Đẩy nhanh tiến độ xây dựng khu tưởng niệm các vua Hùng

Sáng 10-5, Chủ tịch UBND TPHCM Lê Hoàng Quân và Phó Chủ tịch
Thường trực UBND TPHCM Nguyễn Thành Tài đã đi tìm hiểu và chỉ đạo việc thực
hiện dự án Khu tưởng niệm các vua Hùng và công tác bồi thường giải phóng mặt
bằng trong Khu công viên Lịch sử – Văn hóa dân tộc tại phường Long Bình, quận 9.

Sau khi nghe báo cáo tình hình, Chủ tịch Lê Hoàng Quân ghi nhận
những nỗ lực của Ban quản lý công viên và chỉ đạo tháo gỡ những khó khăn trong
quá trình thực hiện dự án. Theo đó, UBND TPHCM cho phép chỉ định thầu những
công việc đòi hỏi chuyên ngành nghệ thuật cao để đẩy nhanh tiến độ thi công.
Phải hoàn thành công việc xây lắp, lắp đặt trang thiết bị, trang trí nội ngoại
thất của đền chính vào tháng 12-2008. Đầu tháng 2-2009 hoàn thành phần văn bia,
câu đối liễn (GS Vũ Khiêu đã nhận lời góp ý về nội dung); liên hệ với Đền Hùng
Phú Thọ về việc nhận trống đồng (phiên bản), đất Tổ, bát nhang, cây cọ; chuẩn
bị bài văn tế và mời chủ tế cho buổi lễ Giỗ Tổ Hùng Vương vào năm 2009. Sở
VH-TT thực hiện tập sách và bộ phim giới thiệu về công trình này.

Chủ tịch Lê Hoàng Quân yêu cầu giải quyết dứt điểm việc giải phóng
mặt bằng đúng luật định, chú ý tái định cư và nhận con cháu của người dân ở địa
phương vào làm việc tại công viên. Hướng tới, công viên cần khai thác, tổ chức
các loại dịch vụ, cung ứng cây xanh, hoa kiểng, huy hiệu Đền Hùng, các sản phẩm
lưu niệm… để lấy thu bù chi. Từ năm 2010, công viên phải thu hút khoảng 10
triệu khách/năm.

NGÃ BA TÂN VẠN

Trước mặt chúng ta là ngã ba Tân Vạn , nếu rẽ trái vào 500m là khu
du lịch Bình An nơi nghỉ ngơi cuối tuần cho dân thành phố. Với khung cảnh
thoáng mát hữu tình, có hồ nước, nhiều khu vui chơi giải trí , còn nếu rẽ phải
là vào núi Châu Thới , khu du lịch suối Lồ Ồ.

CẦU ĐỒNG NAI

Không biết vô tình hay hữu ý mà cây cầu Đồng Nai này trở thành
ranh giới tự nhiên giữa TPHCM và tỉnh Đồng Nai. Cầu dài 453,9m , rộng 16m, được
xây dựng cùng thời với cầu Sài Gòn và xa lộ Biên Hoà. Cầu Đồng Nai được bắc qua
sông Đồng Nai dài 586km được bắt nguồn từ Cao nguyên Lâm Viên chảy qua địa phận
tỉnh Đồng nai , sau đó hợp với sông Sài Gòn và đổ ra vịnh Gành Rái . Sông Đồng
Nai có giá trị về đời sống và kinh tế lớn như: nước sinh hoạt, giao thông, nông
nghiệp và đặc biệt là thuỷ điện .

Thưa quý du khách! Từ đây nhìn về phía tay trái xa xa ở ngã ba
sông về phía thượng lưu là Cù Lao Phố có diện tích 60 ha. Ngược dòng lịch sử
1679 khi triều Minh ở Trung Hoa bị nhà Thanh lật đổ có khoảng 3.000 binh sĩ và
gia đình trong nhóm “Bài Thanh phục Minh” đã và xin chúa Nguyễn cho làm dân
Việt. Trong đó có một nhóm do Trần Thượng Xuyên làm thủ lĩnh đã đến cư trú tại
đây và lập nên một cảng có hoạt động thương mại sầm uất gọi là Nông Nại Đại Phố
1698, thừa lệnh chúa Nhuyễn Phúc Chu , chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh đã vào Nam
kinh lý, ông thấy vùng đất này trù phú và yên bình nên đã dừng chân tại đây.
Ông đã chia các đơn vị hành chánh và thành lập chính quyền tại Nam Bộ, hai
huyện đầu tiên là Phước Long (Thuộc dinh Trấn Biên – Biên Hoà) và Tân Bình ( Thuộc
dinh Phiên Trấn – Sài Gòn ) 1998 TPHCM và TP Biên Hoà đã kỷ niệm 300 ngày được
nền hành chánh đầu tiên tại Nam Bộ .

NHÀ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM

Tổ tiên ta từ khi thoát khỏi tình trạng nguyên thủy, từ thời đại
đồ đá chuyển sang thời đại đồ đồng, con người đã rời bỏ những hang động miền
núi để tiến về miền trung du và đồng bằng, họ quần cư trên các gò, đồi, các mỏm
đất cao. Song song với việc lập làng là việc xây dựng nhà. Đấu vết để lại là
những di tích, hình ảnh nhà sàn thô sơ trên trống đồng Đông Sơn.

Ông cha ta có câu “An cư mới lập nghiệp” do vậy việc làm nhà là
hết sức quan trọng. mỗi vùng miền có một điều kiện địa hình, khí hậy, vật liệu
xây dựng…khác nhau nên có những cách làm nhà khác nhau. Các dân tộc ở vùng cao,
miền núi thường làm nhà sàn, còn các dân tộc ở đồng bằng ven biển loại nhà chủ
c=yếu là nhà trệt, nhà sát đất.. chẳng hạn như ở Đồng Bằng Sông Hồng, lúc đầu
dân cư ở đây làm nhà sàn, nhưng sau khi nhà Lý cho xây dựng đắp những con đập
để tránh chu kỳ lũ lụt hàng năm nên cư dân chuyển sang làm nhà trệt, nhà đất.

Vật liệu xây dựng chủ yếu là tận dụng các vật liệu có sẵn trong tự
nhiên như: đất đá để xây dựng. có một số vùng có gổ, tre để làm cột nhà, kèo
nhà, dùng tren, nứa đan làm những tấm phênh và vách ngăn. Mái nhà được lợp bằng
các loại lá như: tranh , lá dừa, lá cọ, ngói…

Vào thời phong kiến việc xây dựng nhà của người dân được quy định
rạch ròi. Năm 1097 vua Lý Nhân Tông ra lệnh “cấm dân gian bách tính không được
xây nhà ngói, làm thuyền lớn “ (Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim), nhà Nguyễn
thì quy định cụ thể hơn, Luật Gia Long ở điều 156 quy định về kiến trúc dân
gian rất ngặt nghèo. Nhà ở trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được dựng
trên nền 2 cấp hay chồng 2 mái (chồng diêm). Không được sơn vẽ, trang trí, cấm
làm nhà có gác cao, cấm dùng gỗ lim làm nhà…

Dân phường mà giáp đường quan

Không được làm gác trông ngang ra đường

Có can làm chỗ cửa hàng

Chiều cao không được cao bằng kiệu quan”

Ngày nay việc làm nhà phải thuận tiện cho việc làm ăn sinh sống
của cư dân. Địa thế làm nhà phải là “nhất cận thị, nhị cận tân, tam cận giang,
tứ cận lộ, ngũ cận điền” (một gần chợ, hai gần bến đò, ba gần sông, bốn gần
đường cái, năm gần ruộng).

Mặt bằng xây dựng nhà theo chữ nhất (–) chữ nhị (=) chữ đinh (J)
thường có một gian, 3 gian, 5 gian cộng thêm hai chái ở hai bên. Trước đây tùy
vào vào điều kiện tự nhiên mỗi vùng mà có cách xây nhà khác nhau. Nền nhà được
đắp bằng đất, sau này thì lát gạch hoặc hoặc ván, các bức tường được làm bằng
đất sét, đá ong hoặc bằng gạch.

Quan trọng nhất trong một ngôi nhà là hệ thống cột và vì kèo (đà
ngang, cột dọc) tạo nên các khung vững chắc cho ngôi nhà. Cột được liên kết lại
với nhau bằng những vì kèo. Phổ biến nhất là kèo ba cột vì trong một dãy có 3
hàng cột được liên kết lại với nhau. Cách bố trí trong nhà gồm: gian giữa
thường làm nơi thờ phụng tổ tiên, ông bà, cha mẹ…các gian 2 bên dùng làm phòng
ăn,sinh hoạt, phòng ngủ hoặc để thóc lúa…

Suốt dọc bờ biển miền Bắc, nhất là từ Quảng Ninh đến Thái Bình là
nơi đầu sóng ngọn gió, nên căn nhà phải thu mình thật ngạt (nhỏ), bám chặt vào
đất. kiểu nhà bốn hàng chân mở cửa phía Nam đón gió mát tránh gió bão từ biển
thổi vào, mái lợp tranh hoặc ngói. Tường được đắp đất rất dày, trổ ít cửa tạo
dáng nhỏ bé nhưng vững chắc.

ở Miền Trung có 2 kiểu nhà đặc trưng là nhà Rọi và nhà Rường. nhà
Rọi là loại nhà mà trong một hàng cột có 3 cái xếp thẳng hàng với nhau, cột
giữa nhỏ và cao hơn 2 cột hai bên. Được liên kết với nhau bằng hệ thống xà
ngang và vì kèo rất chắc chắn tạo nên hình chữ thập. nhiều hàng cột liên tiếp
nhau tạo thành các gian nhà. Trên các xà ngang có thể dùng ván lót để chất hàng
hóa, thóc lúa khi bị lũ lụt. còn nhà Rường thì trong một hàng cột có 4 cột dựng
liên tiếp thẳng hàng nhau. Hai cột giữa cao hơn hai cột 2 bên liên kết với nhau
cũng bằng hệ thống vì kèo tạo ra sự kiên cố nhất định.

Vào đến Nam Bộ, địa hình kinh rạch chằng chịt, mặt nước mênh mông.
Cư dân tự cư trú trên các kênh rạch, đào đất đắp nền, dùng cây đước cây tràm,
lá buông làm nhà, Có những nhà nổi làm nhà nhà sàn trên những cột gỗ cắm xuống
lòng kênh lợp bằng lá dừa…

“Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam”Như vậy hướng của các cửa
chính ngôi nhà phải quay về hướng Nam. Mục đích chính là đón gió mùa đông bắc,
ngôi nhà tránh được gió rét và vào mùa hạ vẫn được mát mẻ. ngày nay đa số nhà
cửa của chúng ta quay về hướng mặt tiền, hướng nhà quay ra đường rất thuận tiện
cho việc buôn bán và đi lại…

Kiến trúc cơ bản về nhà cửa của các dân tộc anh em

Nhà người Chăm có núi phía nam, có sông phía bắc, có gò cao phía
tây, thoải dần về phía đông. Trong làng chỉ trồng cây me, khuôn viên nhà gồm
có: nhà tục (thang đơ), nhà đôi (thang mơ dâu), nhà bếp (thanh dìn), nhà kho
(thang tôn), nhà ngang (thang cần), nhà ló (thang Pinai).

Nhà người Ê đê: nhà sàn dài 3- – 40 m (dài bằng một tiếng chuông,
rộng hơn một tiếng cồng) có một hay vài bếp ăn. Nhà hướng bắc – nam, cửa hai
đầu hồi, có cầu thang hình phụ nữ, ngôi sao hình trăng khuyết (nam đầu bắc nữ
đầu nam) vách phía đông là phòng ngủ, ngủ quay đầu về hướng đông, bếp trước
buồng ngủ, đầu bắc nơi tiếp khách để nhạc cụ hoặc vũ khí.

TỔNG QUAN ĐỒNG NAI

Lịch sử Đồng Nai

Cuối thế kỷ XVI, vùng đất Đồng Nai vẫn còn hoang dã, chưa được
khai phá, người dân bản địa gồm các dân tộc Stiêng, Mạ, Kơ ho, M’nông, Chơ ro
và một vài sóc người Khơ me sinh sống. Dân ít, sống thưa thớt, kỹ thuật sản
xuất thô sơ, trình độ xã hội còn thấp.

Cuộc chiến tranh của họ Trịnh và họ Nguyễn ở miền Trung và Bắc
Việt Nam làm cho dân chúng khổ sở, điêu đứng và tạo ra một làn sóng di cư của
người dân miền Thuận Quảng vào Đồng Nai tìm đất sống.

Bản tính cần cù, chịu khó, lưu dân người Việt đã cùng với người
bản địa chung sức khai phá đất đai để sản xuất nông nghiệp. Dần dà, rừng rậm
hoang vu đã trở thành những cánh đồng lúa và hoa màu tươi tốt.

Năm 1679, nhà Minh ở Trung Quốc sụp đổ, Tổng binh Trần Thượng
Xuyên trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm không khuất phục nhà Thanh đã đem 50
chiến thuyền, 3.000 binh lính thân tín và gia quyến đến xin thuần phục chúa
Nguyễn ở Thuận Hóa. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã thu nhận họ và cho vào khai khẩn,
mở mang vùng đất Đông Phố (Cù lao Phố ngày nay).

Năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu
Cảnh vào kinh lược vùng đất Đồng Nai (là cả Nam Bộ bây giờ), đặt vùng đất mới
thành phủ Gia Định, chia làm 2 huyện: huyện Phước Long (Đồng Nai) dựng dinh
Trấn Biên, huyện Tân Bình (Sài Gòn) dựng dinh Phiên Trấn. Ngoài ra, Nguyễn Hữu
Cảnh còn cho lập bộ đinh, bộ điền, chiêu mộ những người có vật lực từ các vùng
khác vào lập nghiệp và phát triển kinh tế.

Người Hoa theo Trần Thượng Xuyên đầu tiên định cư ở Bến Gỗ, nhưng
thấy Cù lao Phố có vị trí thuận lợi cho việc kinh doanh buôn bán, họ đã quyết
định di chuyển đến đây sinh sống. Từ đây, Cù lao Phố phát triển ngày càng phồn
thịnh và nhanh chóng trở thành trung tâm thương mại và giao dịch quốc tế của cả
vùng Gia Định (Nam bộ ngày nay).

Diện tích: 5.903,9km²

Dân số:2.214,8nghìn người (năm 2006)

Tỉnh lỵ:Thành phố Biên Hòa

Các huyện, thị:

Thị xã: Long Khánh.

Huyện: Tân Phú, Định Quán, Vĩnh Cửu, Thống Nhất, Xuân Lộc, Long
Thành, Nhơn Trạch, Cẩm Mỹ, Trảng Bom.

Dân tộc:Việt (Kinh), Hoa, Xtiêng, Chơ Ro, Chăm.

Điều kiện tự nhiên

Đồng Nai là tỉnh miền Đông Nam Bộ, cửa ngõ phía đông của Tp. Hồ
Chí Minh, phía bắc giáp Lâm Đồng, phía đông giáp Bình Thuận, phía tây giáp Bình
Dương, Bình Phước và Tp. Hồ Chí Minh, phía nam giáp Bà Rịa – Vũng Tàu.

Tỉnh Đồng Nai nằm trên lưu vực sông Đồng Nai và một nhánh của nó
là sông La Ngà, có sông Lá Buông chảy qua, có nhà máy thủy điện Trị An… Địa
hình Đồng Nai gồm một số thung lũng, đồng bằng, gò, đồi thấp, tuy nhiên phần
đất tiếp giáp với cao nguyên Lâm Viên và Di Linh thì tương đối cao. Phần lớn
đất ở Đồng Nai là đất bazan, đất xám và đất phù sa cũ rất tốt cho việc trồng
trọt. Bởi vậy Đồng Nai trồng nhiều cây công nghiệp (cây cao su, cà phê…), cây
ăn trái và cây công nghiệp ngắn ngày.

Khí hậu:có 2 mùa – mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ
tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm 25,4ºC – 27,2ºC.

Tiềm năng phát triển kinh tế và du lịch

Đồng Nai là tỉnh có công nghiệp phát triển, thu hút vốn đầu tư
nước ngoài lớn thứ hai của khu vực miền Nam, chỉ sau Tp. Hồ Chí Minh. Xung
quanh thành phố Biên Hoà có khu công nghiệp rộng lớn, nhiều nhà máy, xí nghiệp,
công ty. Đồng Nai có nhiều nghề thủ công. Đồ gốm sứ Đồng Nai đẹp có tiếng trong
nước. Đồng Nai có những rừng cao su, cà phê bạt ngàn, có rừng cấm Cát Tiên, một
khu rừng nguyên sinh rộng lớn.

Đến Đồng Nai du khách có thể tham gia những chuyến du lịch sinh
thái trong các khu rừng hoặc vườn cây ăn quả, cũng như săn bắn, câu cá, du
thuyền trên sông Đồng Nai, dã ngoại tại các thắng cảnh: hồ Long Ẩn, khu văn hoá
Suối Tre, thác Trị An, rừng Mã Đà,… hay tham quan các di tích chiến tranh,
nghiên cứu các di chỉ khảo cổ: mộ cổ Hàng Gòn, đàn đá Bình Đa… Đồng Nai còn nổi
tiếng với nghề thủ công truyền thống như làng gốm Tân Vạn, ven sông Đồng Nai của
người Việt, nghề đục đá truyền thống tinh xảo của người Hoa sống gần hồ Long Ẩn.

Dân tộc- tôn giáo

Đồng Nai có nhiều dân tộc sinh sống, phần lớn là người Việt. Ngoài
ra có người Hoa, Xtiêng, Chơ Ro, Chăm, Mạ… Đồng Nai có một truyền thống dân
gian khá phong phú, đặc biệt là văn hóa của đồng bào dân tộc ít người. Tôn giáo
chủ yếu ở Đồng Nai là Phật giáo và Công giáo. Ngoài ra, một số ít người theo
đạo Tin Lành, đạo Hồi, đạo Cao Đài, Hòa Hảo.

Đồng Nai còn là quê hương của một số loại nhạc cụ dân gian độc đáo:
đàn đá Bình Đa, sáo trúc, chiêng đồng, thanh la, khèn bầu, khèn môi. Lối hát
Tam Pót của dân tộc Mạ, một loại hình hát kể có vần điệu được lưu truyền trong
cộng đồng người Mạ ở huyện Định Quán hiện đang được khôi phục lại.

Giao thông

Thành phố Biên Hòa cách Tp. Hồ Chí Minh 30km, cách Hà Nội 1.684km
theo đường quốc lộ 1A, cách Đà Lạt (Lâm Đồng) 278km theo quốc lộ 20, cách Vũng
Tàu (Bà Rịa – Vũng Tàu) 95km theo quốc lộ 51, cách Cần Thơ 198km. Đường sắt
tuyến Bắc – Nam đi từ Hà Nội qua thành phố Biên Hòa đến Tp. Hồ Chí Minh.

Sông Đồng Nai-Cầu Đồng Nai

Sông Đồng Nail à tên con sông lớn thứ nhì đất Nam Bộ, chỉ thua
sông Cửu Long. Sông chảy qua các tỉnh Lâm Đồng, Đăk Nông, Bình Phước, Đồng Nai,
Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh, Long An, và Tiền Giang với chiều dài trên
500 km.Theo sách cổ Gia-định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức thì sông còn có
tên là “sông Phước Long” vì gọi tên theo phủ Phước Long. Nguồn sông xuất phát
từ cao nguyên Lâm Viên, tỉnh Lâm Đồng. Đoạn trên sông mang tên sông Đắc Dung.
Sông Đa Nhim, một phụ lưu của nó, góp nước vào sông Đắc Dung ở Đại Ninh. Sông
uốn khúc chảy theo hướng đông bắc-tây nam vượt khỏi miền núi ra đến bình nguyên
ở Tà Lài, tỉnh Đồng Nai. Ở khoảng hợp lưu với sông Bé thì có đập Trị An chắn
dòng sông, tạo nên hồ nước nhân tạo lớn nhất miền Nam, tức Hồ Trị An. Hồ Trị An
cũng là nơi sông La Ngà từ triền núi phía nam cao nguyên Di Linh dồn nước về.
Đến thị trấn Uyên Hưng thì sông Đồng Nai chảy theo hướng bắc-nam ôm lấy cù lao
Tân Uyên và Cù Lao Phố. Sông chảy qua thị xã Biên Hòa và Nhà Bè thì phân nước
ra mấy nhánh như sông Lòng Tàu và sông Đồng Tranh. Vì vậy ca dao có câu:

Nhà Bè nước chảy chia hai

Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về…

Gia Định là rẽ theo sông Sài Gòn lên phía Tây Ninh, còn Đồng Nai
là theo dòng sông lên Biên Hòa. Nhánh chính sông Đồng Nai ở khúc hạ lưu thường
gọi là sông Nhà Bè. Sách xưa gọi sông này là “Phước Bình”. Sông Đồng Nai hoà
với nước của sông Vàm Cỏ từ Long An đổ về trước khi tuôn ra Biển Đông tại cửa
Soài Rạp.Phụ lưu chính của sông Đồng Nai gồm sông La Ngà, sông Bé, sông Sài Gòn
và sông Vàm Cỏ.Sông Đồng Nai có một số cảng lớn như cảng Cát Lái, cảng Bình
Dương. Đường sắt và Quốc lộ 1 A vượt sông này qua Cầu Đồng Nai ở Biên Hòa.Đồng
Nai nguyên tên phiên âm tiếng Miên là “Nông-Nại”. Đây là vùng đất Chân Lạp
người Việt vào khai phá trước tiên.

Cù Lao Phố trên sông Đồng Nai là nơi phát triển sầm uất của cộng
đồng người Minh Hương trước khi vùng đất này trở thành đơn vị hành chính chính
thức của Đàng Trong năm 1698.

Cầu Đồng Nai : dài 453,9m- ngang 16m,là một cầu đường bộ quan
trọng trên Quốc lộ 1A, bắc qua sông Đồng Nai ở giữa địa phận thành phố Biên Hòa
và huyện Dĩ An tỉnh Bình Dương. Được xây dựng từ thời Pháp thuộc khoảng năm
1959-1961, tu bổ hòan toàn bởi công ty xây dựng Mỹ, cây cầu hiện nay đã có dấu
hiệu xuống cấp mặc dù là tuyến giao thông huyết mạch với trọng tải 25 tấn có
hơn 44,000 lượt xe mỗi ngày. Có cảnh báo cầu có thể bị sập bất cứ lúc nào. Hiện
có dự án cầu Đồng Nai 2 đã được xây dựng.

Thành phố Biên Hoà

Lịch sử

Nhóm người Hoa đầu tiên đến Cù Lao Phố là : Trần Thượng Xuyên,
Trần An Bình đã lập cảng Nông Nại Đại Phố

Văn hoá

Nơi đây là điểm hội tụ giao thoa ủa nhiều nền văn hoá cổ Óc Eo Hoa
Chăm Việt và nhiều bộ tộc thiểu số , nhiều di chỉ phát hiện ở cù lao Rùa , đàn
đá ở Bình Đa, mộ cổ Hàng Gòn ở Trảng Bom.

Địa lý

Biên Hòa nằm ở phía tây tỉnh Đồng Nai, bắc giáp huyện Vĩnh Cửu,
nam giáp huyện Long Thành, đông giáp huyện Trảng Bom, tây giáp huyện Dĩ An, Tân
Uyên tỉnh Bình Dương và Quận 9 – thành phố Hồ Chí Minh.Biên Hòa ở hai phía của
sông Đồng Nai, cách trung tâm thành phố Hồ Chí Minh 30 km (theo Xa lộ Hà Nội và
Quốc lộ 1A), cách thành phố Vũng Tàu 90 Km (theo Quốc lộ 51).Tổng diện tích tự
nhiên là 154,73 km2, chiếm 2,64% diện tích tỉnh.

Bên cạnh việc là tỉnh lỵ của Đồng Nai, Biên Hòa còn là trung tâm
kinh tế và xã hội của tỉnh.Thành phố đô thị loại II này cũng là trung tâm công
nghiệp quan trọng của cả nước. Biên Hòa có 4 khu công nghiệp được Chính phủ phê
duyệt: Khu công nghiệp Biên Hòa 1, Khu công nghiệp Biên Hòa 2, Khu công nghiệp
Amata và Khu công nghiệp Loteco đã đi vào hoạt động với cơ sở hạ tầng được xây
dựng đồng bộ.Chính phủ cũng đã phê duyệt Khu công nghiệp Hố Nai và Khu công
nghiệp Sông Mây. Tỉnh đã quy hoạch Khu công nghiệp Bàu Xéo.Biên Hòa là đầu mối
giao thông quan trọng của quốc gia, có đường sắt Thống Nhất chạy qua cùng Quốc
lộ 1 và Quốc lộ 51.

NGÃ BA VŨNG TÀU

Qua khỏi cầu Đồng Nai trước mắt chúng ta là ngã ba Vũng Tàu, nếu
rẽ phải theo quốc lộ 51 khoảng 100km là chúng ta đến một trung tâm dầu khí, một
thành phố biển nổi tiếng tại miền Nam đó là TP Vũng Tàu. Nhưng chúng ta đến Nha
Trang nên theo quốc lộ 1 là đi thẳng, quốc lộ 1 là con đường duy nhất đi các
tỉnh miền Trung và miền Bắc .

ĐẠI SIÊU THỊ CORA – Siêu Thị BigC

Siêu thị Cora được khánh thành ngày 18/08/1998 do tập đoàn Bourbon
của Pháp đầu tư là 54 triệu USD, diện tích 20.000m2, có trên 2.000 mặt hàng,
trong đó có 90% là hàng hoá sản xuất tại Việt Nam . Tập đoàn Bourbon là một
trong những tập đoàn lớn nhất của Pháp về mặt lương thực thực phẩm. Các dự án
của Bourbon đã đầu tư tại Việt Nam như nhà máy đường Bourbon – Tây Ninh , nhà
máy thức ăn gia súc Buorbon … trong quy hoạch phát triển tại Việt Nam. Bourbon
đã vạch rõ sẽ thô tính toàn bộ hệ thống siêu thị Việt Nam với khách hàng chủ
yếu là tầng lớp trung lưu . Do vậy hiện nay Bourbon đã xây dựng thêm 3 đại siêu
thị Cora Việt Nam : Siêu thị Cora An Lạc – Bình Chánh, siêu thị Cora Hà Nội,
siêu thị Cora Miền Đông – Đường Tô Hiến Thành quận 10.

Hiện nay do tình hình chuyển biến kinh tế thị trường nên tập đoàn
thương mại quốc tế Bourbon đã bán hết cổ phần và nhường quyền khai thác thị
trường lại cho tập đoàn khối liên hợp Châu Au quản lý và đổi lải tên gọi mới là
BigC. Đây là một trong những tập đoàn, có hệ thống siêu thị hiện đại trên thế
giới được mọi người tín nhiệm nhất.Chính vì thế hiện nay những hệ thống chân
rết của siêu thị CoRa đã chuyển đổi tên gọi mới là BigC với tên gọi này thì
hiện nay những mặt hàng có trong siêu thị được phong phú hơn và hấp dẫn khách
hàng hơn khi đến với siêu thị.

QUỐC LỘ 51

Con đường này kéo dài từ ngã 3 Vũng Tàu đến TP. Vũng Tàu dài
khoảng 100km, Quốc Lộ 51 xây dựng vào những năm 1995, đây là một trong những
con đường Quốc Lộ đẹp và tốt của Việt Nam. Khi nói đến Quốc Lộ có nghĩa là con
đường kéo dài từ tỉnh này qua tỉnh khác và phía trên cột cây số sơn màu đỏ. Còn
tỉnh lộ là những con đường kéo dài từ huyện nay này qua huyện khác trong cùng
một tỉnh và phía trên cột cây số sơn màu xanh.

TƯỢNG ĐẦU PHẬT VÀ DỐC 47

Cách ngã 3 Vũng Tàu khoảng 15km, đến đây chúng ta sẽ qua con đường
dốc nghiêng 47o và nằm cạnh ngọn đồi cao 47m vì vậy mà người ta thường gọi là
dốc 47, tuy dốc không dài nhưng khá nguy hiểm bởi vì khi thết kế thi công con
đường này đã làm sai kỹ thuật. Khu vực này còn có 1 tên gọi khác: “ban ngày
quốc gia ban đêm cộng sản” bởi vì trước năm 1975 đây là khu vực tranh chấp gữa
quân Cộng Sản và Quân đội Quốc Gia. Chúng ta thấy có một tượng Phật bán thân
đặt trên bệ tròn 4 cánh giống hình trái pháo. Tượng Phật này được xây dựng năm
1970 bởi viên quận trưởng quận Biên Hòa Lưu Yên (chế độ Sài Gòn) nhằm thu hút
các cử tri Phật Tử trong cuộc bầu cử quận trưởng và để củng cố chức vụ của mình.

LỘC NHUNG


Đây là một nghề chăn nuôi mới được hình thành khoảng 5 năm ở đây,
người dân nuôi hươu lấy nhung và lấy thịt, 1kg nhung có giá trị hàng triệu
đồng. Một năm có thể thu hoạch từ 2 đến 3 đợt. Hươu trưởng thành thì chất lượng
nhung giảm và người ta giết thịt, hươu mới sanh được 1 năm thì bắt đầu có nhung
dài khoảng 10 đến 15 cm, sau khi thu hoạch nhung, người ta băng bó vết cắt rất
cẩn thận để tránh bị nhiễm trùng, 5 năm sau thì giết lấy thịt.

NGÃ 3 THÁI LAN

Từ dốc 47 đi tới 3km đến 1 ngã 3 phía trái gọi là ngã 3 Thái Lan.
Ngay ngã 3 nếu chúng ta rẽ trái đi 5km gặp trường Đo Đạc Bản Đồ 2. Nếu đi tiếp
5km rẻ trái đến Trường Sỹ Quan Lục Quân 2, nếu rẽ phải vào trườngThiết Giáp
Long Thành. Tên gọi ngã 3 Thái Lan do trước năm 1975 ở khu vực này là nơi đồn
trú căn cứ đánh thuê của Thái Lan Bear – Cat Base, thuộc Binh đoàn Bạch Mã.
Trong cuộc chiến xâm lược Việt Nam, Mỹ sử dụng rất nhiều binh lính đánh thuê,
trong đó có người Thái Lan, tuy nhiên Binh đoàn Bạch Mã này chủ yếu là lính
công binh, chuyên làm và sửa chữa cầu đường chứ không trực tiếp tham chiến..

NÔNG TRƯỜNG BÒ SỮA AN PHƯỚC (BÒ SỮA LONG THÀNH)

Trong cái nắng tháng 5 không có gì thú vị bằng đi tắm biển VT và
càng thú vị hơn nếu trên đường về TP. Hồ Chí Minh đc ghé uống ly sữa tươi ở xí
nghiệp bò sữa An Phước (hiện nay là bò sữa Long Thành. Chúng ta không còn lạ gì
cách nuôi bò và lấy sữa nhưng trong cái nắng, cái nóng mùa khô trên vùng đấ xám
bạc màu ở độ cao 30m khiến ai cũng khó tin đây là địa điểm nuôi bò sữa.

XN An Phước được xây dựng trên mảnh đất này từ tháng 11 năm 1977
với diện tích 903ha. Đàn bò lúc đầu phần lớn do CA tỉnh bắt giao nên chỉ là
giống bò địa phương, lai hỗn tạp, không rõ nguồn gốc. Đất đao như thế, con
giống như thế nên cho mãi đến ăm 1983 đàn bò chỉ được sản lượng sữa bình quân
3l/ngày/con. Số bò cái vắt sữa không đáng kể. XN tưởng như không thể tồn tại,
đàn bò được dự định chuyển đi nơi khác.

Thế nhưng với sự quyết tâm của ban lãnh đạo, CB – CNV XN với sự hỗ
trợ của lực lượng khoa học kỷ thuật thì đến nay giống như điểm bán sữa ngày
càng khang trang, nếu vào XN chúng ta sẽ thấy nơi đây khá khang trang và có tổ
chức sản xuất tương đối tốt. Trong tổng số đàn bò 500 con có 130 con đang vắt
sữa, cho bình quân 1.300l sữa/ngày. Thành công này do đâu?

Trước hết phải kể đến địa điểm tiêu thụ sữa thuận lợi. Đối với
hàng ngàn du lịch khách đi tắm biển vào những ngày cuối tuần trên giữa đường về
TP, ly sữa tươi thật là hấp dẫn. Sự thuận lợi trong tiêu thụ đã thúc đẩy việc
cải thiện đàn giống bò nhanh chóng. Ban GĐ XN đã mua thêm và cho lai đàn bò nền
với con giống Hà Lan. Nhờ đó, hiện nay đã đưa năng suất bình quân lên
10l/con/ngày, trong đó có con lai Hà Lan đời F1 đã đạt cao nhất 26l/ngày. Con
giống tốt lại càng đòi hỏi phải có thức ăn tốt, nên XN đã trồng mía lấy ngọn,
bọt mía, rỉ đường làm thức ăn nuôi bò.

Đường làm ra dùng khuấy sữa đặc, làm bánh sữa – cách giải quyết
sữa trong những ngày vắng khách du lịch lịch. Tuy vậy, vẫn không có đủ thức ăn
đáp ứng nhu cầu bò sữa, vấn đề đặt ra là làm sao có cỏ xanh trong mùa nắng để
giữ năng suất sữa luôn cao? Vì thế, XN đã quyết định trồng và ngày càng phát
triển giống cỏ Guiné 280 của Cu Ba, đây là giống cỏ có năng suất khá cao khoảng
40 tấn/ha/năm và chịu được hạn giỏi. Nhưng nói về hướng lâu dài, Giám Đốc Huỳnh
Văn Đậm – GĐXN cho biết sẽ thủy lợi hóa 100 ha đồng cỏ. Đây cũng là một công
trình lớn và rất cần thiết vì XN hiện nay chỉ có 2 giếng đóng.

Ngoài việc tự lực giải quyết thức ăn cho bò, XN còn có 2 lò gạch với
quy mô 2 triệu viên/năm. Đây là hình thức sản phẩm phụ để có thêm tiên mua thức
ăn tinh (cám,bánhdầu, bột cá…) vốn rất cần cho bò sữa cao sản, ngoài việc tự
túc xây dựng một văn phòng làm việc và nâng cao 1 bước đời sống CB – CNV.

So với các nông trường chăn nuôi bò khác, sự thành công của XN Bò
Sữa An Phước không thể không kể đến vị trí thuận lợi trong việc tiêu thụ sản
phẩm, nhưng điều này chưa đủ nếu những nhà lãnh đạo kinh doanh cũng như kỹ
thuật không biết cách làm và khai thác hết những điều thuận lợi và tiềm năng
của XN.

GIỚI THIỆU VỀ HUYỆN LONG THÀNH

Nằm phía Nam thành phố Biên Hòa, dọc theo Quốc Lộ 51, có diện tích
911 km­­­2 dân số 220.000 người, là một trong 4 tổng: Phước Bình, Bình An và Phước An trong huyện Phước Long xưa. Long Thành có 150km2 rừng ngập mặn với nhiều động vật, tôm cá ở các lòng sông: sông Ông Kèo, sông Thị Vải, Đồng Môn, Đồng Tranh…nghề bắt chim ở xã Phước Thái rất nổi tiếng (ở đây có địa danh Quán Chim), có vườn cây ăn trái Sầu Riêng, Chôm Chôm, Bưởi, Nhãn, Măng Cụt…diện tích lúa 230km2.

Đặc biệt là vùng Bình Sơn An Viễn, Cẩm Đường, Suối Trầu, Lộc An. Diện tích đất
đỏ Bazan 131 km2, từ năm 1917 Pháp đã mở đồn điền cao su ở đây.

NÔNG TRƯỜNG CAO SU LONG THÀNH

Nông trường này vốn là một đồn điền cao su được xây dựng vào năm
1928 do một nhà tư sản Pháp bỏ vốn đầu tư và để cho vợ quản lý nên được gọi là
“cơ sở Bà Đầm”. Chế độ quản lý của đồn điền này rất hà khắc, họ ra sức bóc lột
công sức của tá điền (phu cạo mủ), đánh đập tàn bạo với những tá điền được xem
là cứng đầu để làm gương cho những người khác. Có thể nói là máu, mồ hôi và
nước mắt đã đổ xuống khá nhiều quanh những gốc cao su này. Từ những nổi thống
khổ ấy, những người phu cao mủ đã đứng lên đấu tranh chống việc đối xử vô nhân
đạo của thực dân địa chủ bằng cách: yêu cầu giảm giờ làm việc và nâng cao đời
sống sinh hoạt của những người phu. Đến năm 1930 đồn điện được bán cho công ty
Sip và thuộc quyền sở hữu của công ty này cho đến năm 1975. Sau ngày giải phóng
nơi đây được làm nông trường, diện tíc 1400ha trong đó có 72% là những cây cao
su đã già cỗi, năng suất không cao, nhưng với tinh thần quyết tâm cao Ban Giám
Đốc công nhân nông trường đã cho cải tạo cây trồng, mở rộng diện tích lên đến
3200ha nằm trải rộng trên 8 xã từ xã Long Phước đến Phước thái. Vào năm 1994
nông trường được bình bầu là đơn vị điển hình về mọi mặt của Công Ty Cao Su
Miền Nam và được Hội Đồng Nhà Nước tặng thưởng huân chương lao động hạng ba.

CÂY CAO SU

Cuối TK IXX đầu TK XX bác sĩ Alexangder Yersin mang giống cao su
sang VN cho trồng thí nghiệm tại Suối Dầu – Nha Trang và nhận thấy giống cây
này thích hợp với điều kiện đất đai và khí hậu VN.

Vào TK XVIII tại Bazil lưu vực sông Amazôn người ta đã tìm thấy
cây cao su, lâu lắm rồi bộ tôc Mai – Nác đã biết dùng mủ cây cao su để chống
ẩm, làm bóng để chơi vào các mùa hè nên họ đặt tên cho cây này là Caoochoc có
nghĩa là “Nước Mắt của cây”. Đến TK XIX khắp thế giới đã trồng cây cao su nhưng
tập trung nhiều ở vùng nhiệt đới của xứ châu Phi, Châu Mỹ và vài nước Châu Á.
Khi mang giống cây này sang Việt Nam, người Pháp đã phiên âm chữ Caoochoc và
gọi là cây cao su, họ đã cho trồng thử nghiệm ở 1 số nơi nhưng không thành công.

Đến năm 1863 người Pháp đưa hạt giống từ Java,Malaysia để gieo
trồng tại vườn Ông Thêm – Thủ Dầu Một, ngoài ra còn trồng thí điềm tại Phú Nhuận
với diện tích 45 ha, cùng thời điểm mà BS Yersin cho trồng thử nghiệm tại Suối
Dầu – Nha Trang. Sau đó họ nhập giống từ Colombia & Bazil, đến năm 1904
thành lập đồn điền cao su Suzana (tên của vợ toàn quyền Đông Dương) với diện
tích 3.400 ha đầu tiên ở ngã 3 Dầu Giây. Ngày nay hầu hết các nông trường cao
su do Nhà Nước quản lý, tuy nhiên cũng có 1 số người dân trồng và phát triển
ngành cao su.

Cây cao su được trồng bằng cách ươm cây giống trong vườn ươm, khi
cây cao khoảng 0,8m – 10m người ta mang cây cao su con ra trồng tại vườn theo
từng hàng thẳng, mỗi cây cách nhau 4 – 5m thuận tiện cho việc chăm sóc và lấy
mủ cao su và để cho ánh nắng chiếu vào cây. Khoảng 7 năm sau khi trồng cao su
bắt đầu cho mủ, đường kính của cây lúc dó phải đạt khoảng 20cm.

Người thợ cao su phải lấy mủ vào lúc sáng sớm vì khi ấy quá trình
quang hợp chưa xảy ra mạnh nên mủ cao su có chất lượng hơn. Ban đầu người thợ
dùng 1 con dao có móc cong cạo lớp vỏ lụa bên ngoài cây cao su tránh cạo sâu
vào bên trong vì như vậy cây cao su sẽ bị tổn thương và làm ảnh hưởng đến năng
suất của cây. Trung bình 1 cây cao su cạo được khoảng 60l mủ = 20kg. Mủ tươi
sau khi sấy khô sẽ còn 1/3 trọng lượng, giá trung bình 1 tấn mủ cao su là
1.600USD. Hiện nay diện tích trồng cây cao su trên cả nước VN gần 700.000 ha.

Ban đêm cây cao su thải ra khí độc (cacbonic) rất có hại cho sức
khỏe của người thợ nếu họ ở trong nông trường. Vào thời Pháp thuộc, những người
phu làm đồn điền cao su cho Pháp bị bóc lột rất tàn nhẫn và bị đàn áp rất dã
man. Chính vì vậy mà người ta đã truyền khảu một số câu ca dao như sau:

Bán thân đổi mấy đồng xu

Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng”

hay “Cao su đi dễ khó về 

Khi đi trai tráng khi về bủng beo”

TRUYỀN THUYẾT VỀ NÚI THỊ VẢI VÀ NÚI ÔNG TRỊNH (đối diện huyện mới
Tân Thành)

Theo Gia Định Thành Thống Chí của Trịnh Hoài Đức chép về “núi Nữ 

Tăng” thuộc huyến Long Thành có người con gái họ Lê, giàu có nhưng lỡ thì, sau
khi cha mẹ mất nàng mới có chồng, nhưng không lâu chồng chết. Bà đi tu lấp am ở
đỉnh núi, nên người ta gọi là núi Bà Vải hay núi Thị Vải.

Giả thuyết khác: Có gia đình phú ông, chỉ có 1 người con gái tên
thị Vãi, giỏi võ nghệ, lớn lên phú ông thách ai đánh thắng con gái sẽ được chọn
làm rể nhưng không ai thắng nổi. ông mất, cô con gái thay cha cai quản ruộng
đất. Một hôm cô cùng người làm tên Trịnh đi thăm ruộng, khi về trời mưa, nước
suối ngập cao, không qua được suối nên bị trôi và được chàng Trịnh cứu vớt, từ
đó 2 người nảy sinh tình cảm, nhưng sau đó chàng Trịnh bỏ đi biệt tăm, Thị Vải
cho người đi tìm và thấy xác chàng Trịnh trôi dạt vào chân núi nên người ta gọi
là núi Ông Trịnh, cô gái đau buồn bỏ lên núi và mất ở trên núi gần đó nên người
ta đặt là Núi Thị Vải.

NÚI DINH (đối điện ngã 3 Long Sơn)

Đi tới bên phía trái có ngọn núi đá trơ trọi, có xí nghiệp khai
thác đá, đó chính là Núi Dinh. Tương truyền khi đánh nhau với Nguyễn Ánh, quân
Tây Sơn đã từng đóng quân ở chân núi này nên người ta gọi là núi Doanh, sau đọc
trại thành Núi Dinh.

SUỐI NGHỆ: (xã Hội Bài – Huyện Tân Thành)

Nằm bên tay trái ở xã Hội Bài huyện Tân Thành, đi theo Tỉnh Lộ 2
đến chiến khu Châu Pha, sông Dinh có núi Nghệ, một núi đá thấp chỉ cao hơn
200m. Từ chân núi bắt nguồn một con suối nhỏ chảy vào sông Dinh đó là Suối
Nghệ. Nước khoáng Suối Nghệ (NKSN) được phát hiện đầu tiên vào năm 1972. Nhiều
kết quả phân tích cho thấy: độ khoáng hóa 4g/l, hàm lượng khí Co2: 2.000mg/l (ở
độ sâu 70m), Na: 800 – 900mg/l, K: 820 – 850mg/l, Mg: 130 – 150 mg/l,
Bicarbonat: 2.850 – 2.950mg/l. Thành phần trên cho thấy NKSN cùng loại với nước
suối Vĩnh Hảo, thậm chí chất lượng có phần trội hơn nếu xét về độ khoáng hóa,
hàm lượng Bicarbonat, khí CO2. Chưa cần qua chế biến NKSN cũng đã rất ngon. Nếu
làm siêng cho thêm chút xíu chanh đường, là tuyệt hảo, vừa ngon, vừa bổ. Dân cư
quanh vùng trìu mến gọi tên NKSN là Soda. Thú vị là không chỉ có con người, mà
cả những chú bò trong vùng cũng thích, vì không tài nào dẫn chú bò đi khỏi
giếng Soda mà không cho nó uống thỏa thích. Các chuyên gia đã xếp NKSN cùng
loại với các nước khoáng nổi tiếng trên thế giới như: Vichy, Vals (Pháp), Bojom
(LX), Jeri, Jaco (TK). Mạch nước khoáng Suối Nghệ nằm trên 1 đới cà nát của 1
đứt gãy địa chất. Một lượng nước mặt rất lớn đã thấm sâu vào lòng đất, qua đứr
gãy này từ nhiều ngàn năm trướd, gặp hơi C02 từ dưới lên hòa tan vào trờ thành
1 thứ nước có hoạt tính rất cao, có thể hòa tan nhiều loại nguyên tố trong lòng
đất và trở thành nước khoáng.

Đảo Long Sơn – Núi Nứa Đạo Ông Trần

Đạo Ông Trần là một hiện tượng xã hội vừa mang “Sắc Thái Rừng Sác”
vừa có dáng dấp của những vùng đạo giáo Bảy Núi, Hòa Hảo, Phật Chùa Tây An…ở
vùng Long Xuyên, Châu Đốc (An Giang). Xã đảo Long Sơn (TP. Vũng Tàu) ngày nay
còn bảo lưu nhiều phong tục tập quán củ xưa với cảnh trí thiên nhiên sơn thủy
hữu tình cùng những ngôi nhà kiến trúc theo lối cổ có sức hấp dẫn kỳ lạ đối với
khách du lịch. Trong đó, quần thể Núi Nứa và khu di tích Nhà Lớn Long Sơn (Đền
Ông Trần) hợp thành thắng cảnh độc đáo nổi tiếng khắp nơi.

Đi trên Quốc Lộ 51, ngang qua địa phận Phước Hòa (Tân Thành) khi
còn cách Bà Rịa 6 km, nhìn về phía nam ta gặp một vùng sông nước mênh mông với
màu xamh ngút ngàn trải hút tầm mắt. nổi lên giữa thảm xanh mượt mà là dãy núi
đất tựa như con rồng khổng lồ đang giỡn mình trên sông nước đó là Núi Nứa –
Long Sơn, sỡ dĩ có tên Núi Nứa vì xưa kia trên núi có nhiều cây nứa mọc thành
rừng. Rừng Long Sơn xưa có nhiều cọp dữ. Cuối thế kỷ XIX đã có 2 người đến đây
lập hội múa lân để chiêu mộ người đến khai hoang nhưng đều chịu không nổi phải
bỏ đi. Tuy nhiên một người bám trụ lại là Bà Trao. Sau đó có một người nữa là
Ông Lê Văn Mưu đi chiếc xuồng cùng đứa con trai với “cái túi đựng trời đất” đến
xin lập lân (hội múa Lân). Họ cùng nhau chiêu mộ người khắp 4 phương đến lập
“giang sơn Ông Trần”.

Dưới chân phía Đông Núi Nứa, giữa khu dân cư theo tín ngưỡng Ông
Trần có một quần thể kiến trúc cổ uy nghi, bề thế . Đó là khu di tích kiến trúc
nghệ thuật Nhà Lớn (Đền Ông Trần). Di tích tọa lạc tại thôn 5 (xã Long Sơn),
cách bến đò Cồn Bần khoảng 2km. Với tổng diện tích trên 2ha, bố cục Nhà Lớn
chia làm 3 phần riêng biệt bao gồm: Khu đền thờ, nhả Long Sơn Hội, trường học,
nhà chợ, nhà mát, nhà bảo tồn ghe sấm, các dãy phố quanh chợ và lăng mộ
ÔngTrần, Ông Trần tên thật là Lê Văn Mưu, sinh vào 1856, tại Hà Tiên (nay là An
Giang) đi học thầy đạo và được thầy giao “túi đựng trời đất” để về phía đông
lập “giang sơn đạo pháp”. Ra đi, ngoài “cái túi đựng trời đất” với những câu
sấm câu vè bí hiểm, ông có nghề bốc thuốc…

Trong tuổi thanh niên đầy nhiệt huyết ông đã bất lực nhìn quê
hương bị phương Tây xâm chiếm. Để tránh mặt thực dân Pháp, ông lưu lạc đến
nhiều nơi. Năm 40 tuổi, ông chọn đảo Long Sơn hoang vu giữa rừng đước bạt ngàn,
dựng nhà, khai hoang. Ông vừa có tài tổ chức, vừa xây dựng một hệ tư tưởng lôi
cuốn. Đặc biệt Ông là người biết tổ chức công việc và làm việc hết mình. Ông tự
xưng là “bề trên” nhưng cách xử sự khiêm nhường, nhân danh là “Tướng Điều” do
trời sai xuống giải thích cái tật chân trái ngắn hơn chân phải của mình là do
bị tội trên thiên đình. Từ đó ông ở lại trần gian, bản thân Ông Mưu thường ở
trần, có đặc tính là không bao giờ tắm nên người ta gọi là “Ông Trần”. Ông Trần
chỉ ăn 4 thứ: đậu xanh, cua, tôm, ốc.

Đạo Ông Trần không đề cao một thần linh nào mà chỉ chú trọng vào
khuôn mẫu đạo đức, đi tìm một xã hội bình đẳng, chỉ có một hội đồng kỳ lão điều
khiển công việc. Sắc phục chỉ là bộ quần áo bà ba đen giản dị. Mọi người trên
đảo đều lao động, đất ruộng là của chung, thành quả hưởng chung và hợp tác xã
đơn độc này đã thành công. Trong một thời gian ngắn kiến trúc lớn mọc lên “Nhà
Lớn” là nơi điều hành công việc, chợ Long Sơn, nhà kho, nhà máy đèn…đều thuộc
tập thể. Làng Long Sơn nhỏ bé lúc đó đã từng có quỹ để giúp đỡ các tỉnh Nam Bộ
bị thiên tai, cưu mang người bị nạn. Năm Giáp Thìn (1904) dân bị thiên tai bão
lụt, Ông Trần xuất 7 thiên lúa (7 ngàn giạ) cho người thân tín ở Gò Công, Cái
Bè, Cai Lậy…đón người bị nạn lên Long Sơn cấp tiền, gạo, dao, cuốc cho họ dựng
chòi, khai hoang. Tiếng lành đồn xa về một người Trời được phái xuống cứu khổ
đang ở Long Sơn, lan ra lục tỉnh. Dân tứ xứ quy tụ vể ngày càng đông.

Ông Trần khoanh đất khai hoang cho bất cứ ai đến đảo, không phân
biệt giàu nghèo, giang hồ hảo hớn, miễn chịu theo những điều Ông đặt ra. Đất
khai phá ngày càng rộng, kéo dài từ đồng Bà Cúc, xóm Đất Sét phía bắc xuống xóm
Gò Xu, xóm Chín Mẫu. Riêng phần đất Ông Trần đứng tên trong sổ địa bạ Bà Rịa cũ
là 56 mẫu, 99 sào, 98 cao. Ông còn cho xây “ngũ hồ” chứa nước ngọt, đắp đập
ngăn mặn, xây chợ, dựng nhà máy xay. Nhưng khi Ông Mưu qua đời thì chất tập thể
cũng mất theo. Nhà Lớn chỉ có vai trò một điện thờ, người đã sáng lập ra tín
ngưỡng khác lạ và tạo lập khu dân cư mới ở vùng đông nam đảo, tổ chức xây dựng
từ năm 1910 đến 1935. Khu đền thờ quay mặt ra hướng đông. Trục lộ chính bao
quanh đảo cắt ngang đền thờ thành 2 khu vực .

Khu vực phía đông diện tích 34m2 gồm các công trình kiến trúc: Tam
quan cửa cuốn vòm, mái lợp ngói ống tựa như tam quan các ngôi chùa cổ. khu vườn
hoa bố trí theo hình bát quái với những cây hoa cảnh bố trí theo kiểu vườn
treo. ở đây có nhiều cây kiểng quý trên 80 tuổi. Trụ phướng bằng bê tông cao
khoảng 10m. Hai ngôi nhà khách nằm ngang nhau, mỗi nhà diện tích 15m x 13,5m có
tường hoa bao bọc, trong bày bàn thờ lễ nghi, bộ bàn ghết cổ khảm xà cừ mặt đá
hoa cương và các hoành phi câu đối. Bên trái vườn hoa là nhà tiếp khách của các
vị kỳ lão trong dòng tộc.

Khu vực điện thờ có diện tích 7.800m2 với những công trình kiến
trúc đồ sộ trang nghiêm…lầu Cấm tiền điện 2 tầng 8 mái, kế tiếp là nhà Thánh,
lầu Trời, lầu Tiên, lầu Phật (chính điện). Nhà Thánh có bàn thờ Khổng Tử và bàn
thờ Ông Trần. Nhà (hậu điện) thờ những người ruột thịt trong gia tộc Ông Trần.
Lầu dài làm nơi lễ nghi hội hè. Ngoài ra còn có một số công trình phụ khác: nhà
bếp, kho đựng đồ, nhà máy đèn, kho đựng lúa, hồ chứa nước mưa…Tại đầu bến Kinh
có nhà bảo tồn ghe Sấm là chiếc ghe đã đưa gia đình ông Trần đến Long Sơn lập
nghiệp năm 1900.

Khu Di Tích Nhà Lớn hiện đang lưu giữ nhiều sưu tập cổ vật quý
báu: Bộ tủ thờ cần xà cừ, chạm khắc tinh xảo gồm: 33 cái có nguồn gốc từ vùng
Hà Đông (Bắc Bộ) Bộ bàn ghế Bát Tiên, tương truyền của Vua Thành Thái, đồng hồ
cổ do Pháp chế tạo đầu thế kỷ XX, Chiếc Long Sàng chạm khắc tinh xảo, ghế ngai,
bao lam, hoành phi, câu liễn sơn son thiếp vàng lộng lẫy, thể hiện nghệ thuật
điêu khắc trang trí khéo léo tuyệt vời của nghệ nhân. Lịch sử xây dựng Nhà Lớn
Long Sơn đồng thời quá trình hình thành phát triển của Ấp Bà Trao. Vì vậy bố
cục kiến trúc, nghệ thuật trang trí của di tích phần nào thể hiện nét tiêu
biểu, đặc trưng của tính ngưỡng Ông Trần.

Các công trình xây dựng không theo khuôn mẫu truyền thống, phá vỡ
quy luật đăng đối đương thời. cách bài trí nội thất thật trang nghiêm với nhiều
hoành phi, hương án, bài vị, bàn thờ, đồ tự khí … Tất cả các báu vật trên thật
sự là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc có nguồn gồc từ nhiều nơi trên đất nước
ta, thể hiện rõ nét truyền thống trang trí mỹ thuật của dân tộc bằng tứ linh,
tứ quý, hoa thiêng cỏ lạ, hoa sen, lá đề cách điệu, lã mai, lão Trúc hóa rồng.

Tín ngưỡng Ông Trần không có tính thuần túy mà trong đó pha tạp
nhiều đạo giáo khác nhau: đạo Phật, đạo Lành, đạo Nho giáo, đạo thờ ông bà tổ
tiên… Phật thánh thần đều được thờ cúng trong Nhà Lớn và tại các nhà dân. Đặc
biệt tín ngưỡng này không có kinh kệ, chuông mõ, ăn chay, kiêng kỵ, chỉ có lời
dạy của Ông Trần được truyền khẩu trong dân gian.

Ông Trần lập ra ban kỳ lão gồm 8 người đầu tiên đã theo ông đến
đây khẩn đất lập ấp, lo các việc chung cho dòng tộc. Ông tổ chức đám cưới cho
dân rất đơn giản. Thường cưới hỏi vào ngày 30, mùng 1 và ngày 15, 16 âm lịch
hàng tháng. Không tính ngày giờ, không đặt ra những lễ nghi tục lệ phiền phức.
Khi tổ chức chỉ nấu nồi xôi chè cúng ông bà, không có cổ bàn linh đình. Đám
tang cũng đơn giản, người chết bó chiếu đặt chung một bao quan chung bằng tre
gỗ sơn đỏ và khiêng đi chôn trong ngày, nếu kéo dài cũng không quá 24h. Không
chôn theo hàng lối, không đề tên và bia mộ thân nhân, ra đến huyệt thì xả tang
(bỏ tang) phá bỏ lệ để tang 3 năm. Ông Trần thường nói:”Sống thì đồng tịch đồng
sàng, chết đồng quan đồng quách” nhà nào có đám cưới đám tang hoặc làm nhà thì
ban hương chức và bà con trong ấp tự đến thăm hỏi, giúp công sức chứ không mừng
tiền hoặc phúng tiền, tặng phẩm. Hàng tháng mọi người dân theo ông đều đóng góp
một khoản tiền ‘nhân nghĩa’để giúp các đám tang, đám cưới hoặc giúp nhà nào gặp
rủi ro tại nạn.

Trước kia việc cúng lễ được tổ chức vào ngày 10 tháng 1 âm lịch,
gọi là lễ cúng sao, giải cháo,xôi,bánh trái và hoa quả. Ngoài ra hàng tháng
mồng một và ngày rằm (15) cúng nhỏ không làm cỗ linh đình. Sau khi ông Trần mất
đi, con cháu và tín đồ theo tín ngưỡng vẫn duy trì tập quán cũ. Ông được con
cháu đưa vào thờ cúng trong Nhà Lớn. Từ đó tín ngưỡng Ông Trần mỗi năm có 2 lễ
hội lớn là cúng trùng cửu (9/9 âm lịch) và 20/2 âm lịch ngày cúng cơm Ông Trần
(ngày Vía). Trong 2 ngày này người từ thập phương qui tụ vể đây rất đông, có
năm có trên 20 ngàn người. Cỗ mặn làm từ hôm trước, còn trong 2 ngày này chỉ
cúng xôi,chè,bánh trái,hoa quả. Ngoài ra ngày 5/5 âm lịch, các ngày tết nguyên
đán (7 ngày) đều tổ chức cúng lễ với quy mô nhỏ. Sau khi cúng xong cỗ bàn dọn
xuống để mọi người cùng ăn, không phân biệt ngôi thứ đẳng cấp.

Các nhà dân đều lập nhiều bàn thờ, hầu hết họ dành 3 gian nhà
chính cho việc thờ cúng. Bàn thờ được sắp xếp theo nhiều lớp, chủ yếu thờ ông
bà, tổ tiên, thiên địa, thờ Ông Trần (còn gọi là Ông Cố), Thánh Mẫu, Quan Công.
Ngày có ‘hội làng’, nhân dân tự giác luân phiên nhau đến quét dọn, đèn nhang,
cúng kỉnh trong Nhà Lớn gọi là ‘vô phiên’ hoặc ‘phiên ngũ thường’. Mỗi phiên có
6 người: một người hầu phiên và 5 người phiên ngũ, ai tới vô phiên thì ăn cơm
tại Nhà Lớn.

Trong phần đất công, người trực phiên và dân trong tín ngưỡng thay
nhau tới lao động sản xuất. Những tục lệ được đặt ra từ đời Ông Trần cho đến
nay vẫn được dân tôn trọng và tuân theo một cách tự giác như việc cúng vái hàng
ngày vào lúc 4h sáng và 6h chiều, tổ chức đám cưới hỏi vào giờ Thìn (1856) là
năm mất của Phật thầy Tây An và cũng là năm sinh của Ông Trần. Phụ nữ không
được bước chân vào Lầu Cấm, khi đi qua trước lầu phải ngả nón mũ, không được
nói tục.

Sau khi ông Trần cho dựng lên khu Nhà Lớn (đền thờ) làm nơi thờ
cúng chung (tức tổ đình của đạo giáo), có một số sư sãi và những người mộ đạo
Phật đến xin được tu luyện ở đây. Nhưng Ông Trần không cho, Ông nói:’Muốn thành
Tiên thành Phật thì trước hết phải lo cho dân, cho nước chứ ngồi đây thỉnh kinh
gõ mõ thì ích lợi gì?” Khi đến đây khai phá lập đền thờ, Ông Trần cũng không
xưng danh đạo. Cho nên tín ngưỡng của Ông không có kinh kệ, rước sách, kiêng
kỵ, không cắt tóc ăn chay, không có chuông mõ, người dân theo ông đều mặc áo bà
ba đen, đi chân đất, đầu để tóc dài búi gọn sau gáy. Tất cả những công việc
trong Nhà Lớn cũng như trong dòng tộc đều do những ông lớn (tức 8 vị kỳ lão)
họp dân bàn giải quyết.

Hội đồng kỳ lão có 10 thành viên (8 vị chính thức, 2 vị dự khuyến)
là những người cao tuổi có học thức và có uy tín trong dòng tộc. ngoài ra còn
có những người dân làm công quả gồm cả đàn ông và đàn bà. Đàn ông giúp việc
trong Nhà Lớn, phần đông là thợ chuyên môn, tự nguyện làm không công. Số người
này có khi chỉ có 1 – 2 người, có khi lên tới cả trăm người, tùy theo công
việc, nhất là trong những ngày lễ lớn.

Những người vô phiên (5 người) mỗi lần vào ở Nhà Lớn liên tiếp 3
ngày, 3 đêm. Công việc của họ gồm có: quét dọn vệ sinh, lau chùi tủ thờ, bàn
ghế, đồ thờ cúng, tưới cây kiểng, nấu cơm, nhang đèn cúng kỉnh ngày 2 lần vào
lúc 4h sáng và 6h chiều. Trong mỗi lần vô phiên có 1 người lớn tuổi giữ nhiệm
vụ cúng tế bàn thờ Ông Trần, cắt đặt công việc cho người vô phiên. Người này
gọi là người Hầu Phiên và giữ nhiệm vụ này 1 ngày 1 đêm.

Ngoài những công việc được giao, những người vô phiên và hầu phiên
không có quyển giải quyết các công việc liên quan đến Nhà Lớn và trong tín
ngưỡng. Đi thăm đền Ông Trần luôn luôn có người của Nhà Lớn đón tiếp. Ngoài Nhà
Lớn là điện thờ, ở đây còn có 5 lầu, lầu Phật, lầu Tiên, lầu Trời, Lầu Dài, Lầu
Cấm. Các lầu này nối nhau bằng những cây cầu (riêng lầu Cấm không mở cửa đón
khách). Số bàn thờ trên lầu phải hàng trăm cái, thờ Khổng Tử, Quan Công, Lê Văn
Duyệt, Thánh Mẫu…nhưng đều không có tượng, không đọc kinh. Bàn thờ theo đúng
kiểu xưa, có tủ thờ khảm xà cừ, phía trước có giường thờ, trên để đủ gối, quạt.
Di vật Ông Trần còn chiếc ghe Ông thường dùng vượt biển để bên hông Chợ Long
Sơn. Mộ Ông Trần, trung thành với truyền thống không đề cao cá nhân, chỉ là một
nấm mồ cát không bia.

Dân làng Long Sơn tăng nhanh, đến năm 2000 đã lên tới 10.000 dân,
gần 4/5 theo Đạo Ông Trần, đa số làm ăn phát đạt, nhờ biển hơn nhờ đất. Đây
cũng là điều làm cho người ta càng tin vào sự che chở của người Trời.

Long Sơn là nơi gặp gỡ của vùng giải phóng chiến Khu Rừng Sác với
vùng giải phóng Bà Rịa – Vũng Tàu trong chiến tranh. Từ năm 1945 đến năm 1959,
Long Sơn đã có 3 chi bộ, gần 100 đảng viên (dân số lúc đó 3000 người). Du kích
xã Long Sơn từng tiêu diệt một trung đội Pháp (1947) tại thôn Hai Cầu Đá. Thời
đánh Mỹ, chi bộ Long Sơn vẫn đứng vững trong lòng dân dù địch đánh phá chà đi
xát lại rất ác liệt. Đội du kích Long Sơn là một đội du kích mạnh của Đặc Khu
Rừng Sác, Long Sơn trở thành “điểm hậu cần” của Đặc Công Rừng Sác.

GIỚI THIỆU VỀ BÀ RỊA

Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu được kỳ họp thứ 9 Quốc Hội khoá XIII nước
cộng hoà Xã hội chủ nghĩa VN quyết định thành lập ngày 8/10/1991 .Nguồn gốc của
địa danh Bà Rịa được giải thích bằng nhiều cách , trong đó có một truyền thuyết
trong dân gian ở đây lưu truyền rằng: Bà Rịa là một phụ nữ quê ở Phú Yên theo
gia đình vào Nam từ năm 1688 . Gia đình bà ngụ tại Tam An _ Long Đất ngày nay .
Năm 1967 Trưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh cà Chúa Nguyễn Phước Chu kinh lý phía Nam,
khi đi qua vùng này cầu đường bị hư hỏng vì mưa to gió lớn. Bà Rịa đã huy động
dân tu sữa đường xá, hỗ trợ cho đoàn kinh lý của Trưởng Cơ Nguyễn Hữu Cảnh và
Chúa Nguyễn Phước Chu. Cảm kích trước tấm lòng ấy , Chúa Nguyễn phong cho Bà
Rịa Hàm Nghè danh dự. Năm 1759, bà qua đời, để lại 300 mẫu ruộng sung vào công
điền và chia cho người nghèo, từ đó có tên địa danh Bà Rịa cho đến ngày nay.
Hiện nay xã Tam An – Long Đất vẫn còn đền thờ và lăng mộ Bà Rịa cạnh đường 44 Hậu.

Giả thuyết khác: Ông Etiene Aymonier, một học giả người Pháp cho
rằng”Bà Rịa” là cách phiên âm tiếng Việt của từ Khơme Pareya. Nhà khảo cổ học
L.Mallet giải thích khá cặn kẽ rằng: “Bà Rịa” là sự Việt hóa từ Khơme.

Bà Rịa – Vũng Tàu giáp tỉnh Đồng Nai ở phía Bắc, giáp tỉnh Bình Thuận ở phía
Đông, giáp huyện Cần Giờ của TPHCM ở phía tây, còn lại phía Nam và Đông Nam
giáp biển

Bà Rịa – Vũng Tàu có chiều dài bờ biển là 100km (trong đó 72km là
bãi cát có thể sử dụng làm bãi tắm ). Thềm lục địa tỉnh tuyến giáp với quần đảo
Trường Sa, nơi đây chứa đựng hai loại tài nguyên cực kỳ quan trọng là dầu mỏ và
hải sản .

Bà Rịa – Vũng Tàu có nhiều hồ chứa nước loại lớn như : Kim Long,
Đá Bàn, Châu Pha, Sông Soài, Lồ Ô, Suối Giàu……. Nhiều sông như: Sông Ray, Sông
Bà Đáp, sông Đông …….. và có trên 200 con suối, đặc biệt Suối Nước Nóng Bình
Châu nóng 82OC là một tài nguyên nước khoáng quý.

SƠ NÉT VỀ HUYỆN LONG ĐẤT

Huyện Long Đất được sát nhập từ 2 huyện Long Điền và Đất Đỏ, có
diện tích 287 km2 phía Đông giáp Châu Thành, phía tây giáp Xuyên Mộc. Phía Nam
giáp biển đông, huyện Long Đất có 11 xã, một thị trấn Long Điền và Long Hải. Từ
ngã 3 Bà Rịa đi khoảng 1km đến ngã 3 phía trái theo Quốc Lộ 56 ra ngã 3 Tân
Phong về Long Khánh khoảng 54km. Đi phía phải theo tỉnh lộ 25 đi Long Hải và
theo tỉnh lộ 23 đi Long Điền. Tại ngã 3 của Quốc Lộ 25 và Quốc Lộ 23 phía bên trái.

CẢNG CÁ PHƯỚC TỈNH (Quốc Lộ 25, nằm gần thị trấn Long Hải)

Cảng cá Phước Tỉnh là cảng cá lớn nhất ở khu vực Bà Rịa nơi tàu
thuyền ra vào tấp nập và phố chợ sầm uất. Cảng cá Phước Tĩnh nàm trong một vịnh
nhỏ cuối về phía đông của bán đảo Vũng Tàu nên thuận lợi cho tàu cập bến. Ở đây
tập trung lớn hàng trăm tàu thuyền đánh cá. Đặc biệt có nhiều tàu đánh cá trang
bị hiện đại có rađa, máy phát sóng dò tìm cá, hệ thống thông tin liên lạc với
đất liền, khoang lạnh, nhiều tàu có thể ra khơi đánh bắt hàng tháng liền, có
khoảng 500, sản lượng 34.000 tấn cá/năm. Phước Tỉnh nếu được đưa vào tham quan
du lịch cũng sẽ là điểm dừng chân lý tưởng cho du khách.

THỊ TRẤN LONG HẢI

Một trong hai thị trấn của huyện Long Đất, Long Hải chỉ là một thị
trấn nhỏ người, dân đa số sống bằng nghề đánh cá, làm nước mắm, làm muối. Hiện
nay thị trấn Long Hải đang có kế hoạch xây dựng lại cơ sở hạ tầng nhiều khách
sạn khá đẹp mọc lên để đón du khách.

NGHỀ LÀM MUỐI VÀ KỶ THUẬT SẢN XUẤT MUỐI Ở BÀ RỊA

Dọc 2 bên đường từ ngã 3 đến Thị Trấn Long Hải là những ruộng muối,
một trong những nghề truyền thống lâu đời ở đây. Thường thì ruộng muối được lập
ở những vùng đất trũng thấp, ruộng muối có 3 bộ phận:”Đùn, Sân và Ruộng” mỗi bộ
phận đều có đất đắp bao quanh thành khu vực riêng biệt, phần “ruộng” tức là nơi
thu hoạch muối được lập rất công phu. Sau khi chặt bỏ hết cây cối trên diện
tích dự định làm ruộng, người ta phải đào bỏ lớp đất bùn trên mặt ruộng đào lấy
rễ cây lớn nhỏ xong đưa đất cứng đến đắp lại nền ruộng và nện cho thật kỹ, thật
bằng phẳng để sau này có thể dùng cào để lấy muối. Bờ đất xung quanh càng đắp
kỹ hơn để nước bên ngoài không thể thấm hoặc theo lỗ mọt chảy vào ruộng làm tan
muối . Nước biển theo các kinh nhỏ vào Đùn tức khu vực bốc hơi lần 1, sau đó
đưa vào sân 2, sân 3. Nồng độ muối mỗi lúc một tăng cuối cùng đưa vào ruộng
muối. Muối kết tinh ở đáy ruộng được cào lên bờ gom thành đống lớn. Tùy theo
trời nắng người ta có thể khai thác muối từ 21 ngày đến 30 ngày.

Ở khu vực Bà Rịa người ta thường sản xuất muối vào mùa khô, sản
lượng ở đây khoảng 35.000 tấn/năm. Khi đi qua khu vực này chúng ta thấy có
nhiều cánh quạt gió, những quạt này được người dân dùng sức gió để bơm nước vào
ruộng muối, hiện nay ở Việt Nam chỉ có Bà Rịa là còn sử dụng kỹ thuật này.
Ngoài ra các tỉnh miền Trung người ta cũng sản xuất muối trong mùa mưa với kỹ
thuật khác. Muối ở Việt Nam tốt nhất là ở khu vực Cà Ná, vì thành phần NaCl cao
cho nên được sử dụng vào công nghiệp.

Nhận xét

Đăng nhận xét

Zalo
Facebook
Hotline: 0918 290 015