Lịch sử nam tiến
Nhắc lại đôi nét về lịch sử mở mang bờ cõi của nhân dân Việt Nam:
Căn cứ theo tài liệu sách sử để lại, đại cương cuộc nam tiến không ngừng của dân tộc Việt Nam gồm có những năm này quan trọng nhất:
-Năm 938, tổ tiên người Việt còn ở Thanh Hóa, và nhờ có ông Ngô Quyền, cởi được ách Bắc thuộc, mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần về sau được tự chủ ở cõi Nam;
-Năm 1069, xuống đến Quảng Bình, Quảng Trị.
-Năm 1307, nhà Trần gả Huyền Trân Công chúa cho vua Chàm, mở rộng cõi bờ thêm hai châu Ô và châu Lý (Thừa Thiên)
-Năm 1425, đến Thuận Hóa.
-Năm 1471, đến Quy Nhơn;
-Năm 1611, đến Phú Yên;
-Năm 1653, đến Nha Trang;
-Năm 1658, Cao Miên xin thần phục chúa Nguyễn, nhìn nhận quyền của triều đình Huế.
-Năm 1680, chúa Nguyễn cho tàn binh nhà Minh khai khẩn hoang địa vùng Đồng Nai;
-Năm 1693, đến Phan Thiết.
-Năm 1698, đến Biên Hòa và Gia Định (Sài Gòn).
-Năm 1708, Mạc Cửu dâng Hà Tiên cho chúa Nguyễn, Mạc Cửu được phong làm tổng binh đời đời trấn thủ Hà Tiên;
-Năm 1755, vua Cao Miên nhượng đất Tần Bôn và Lôi Lạp cho Võ Vương. Ở miền Nam, ông Nguyễn Cư Trinh với những kế hoạch khẩn hoang, dinh điền ở miền Nam.
-Năm 1780, Mạc Thiên Tứ mất, không có con nối hậu. Từ đây, đất Hà Tiên sáp nhập vào cơ đồ chúa Nguyễn. Sự nghiệp Nam tiến của dân tộc Việt Nam đến đây đã hoàn thành.
Các thế kỷ 16, 17 và 18, người dân Việt sống ở miền Trung thuộc miền Ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức, Quảng Nam, Quảng Ngãi) chịu đựng liên tiếp các cuộc chiến nội chiến giữa các chúa thuộc dòng họ Trịnh và Nguyễn. Lý Thánh Tông mở đầu cho việc Nam tiến.
24/10/1069, vua Lý Thánh Tông cưỡi thuyền đi chinh phạt Chiêm Thành, thuyền quân men theo bờ biển vào đất Chiêm. Từ đời Lý Thánh Tông trở về trước, cửa biển Nam Giới còn gọi là cửa Sót, ở vào phía Nam núi Hồng Lĩnh thuộc phủ Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh là cửa biển lớn cuối cùng của nước ta, sau tiếp giáp là các cửa thuộc Chiêm Thành. Có lẽ tên Nam Giới (bờ cõi phía nam của Đại Việt) lấy nghĩa ở sự ấy. Cửa này quan trọng vì lễ lúc bấy giờ quân Chiêm Thành thường vào nước Đại Việt bằng chỗ đó.
Từ cửa đầu nhỏ là cửa Di Luân hay cửa Ròn là thuộc Chiêm Thành. Cửa thứ hai rộng nhưng cạn là cửa Bố Chính hay cửa Gianh. Cửa thứ ba là cửa Nhật Lệ, ngày nay gọi là cửa Đông Hải. Trận tấn công Chiêm lần này, vua Chiêm là Rudravarman III bị bắt làm tù binh. Về sau, ông (Chế Cũ) dâng 3 châu Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh để chuộc thân. Ba châu này ứng với địa phận Quảng Bình và phía bắc Quảng Trị.
Trước đó, các ông vua thuộc các triều đại Tiền Lê đến vua Lý Thái Tông đã từng cất quân đi đánh Chiêm Thành nhiều lần, nhưng lần nào xong việc bình Chiêm bèn rút quân về mà không có ý chiếm đất, lập ấp. Nước Đại Việt được mở mang là bắt đầu từ lần đi đánh Chiêm Thành này của vua Lý Thánh Tông vậy.
Chúa Nguyễn Hoàng quyết tâm Nam tiến. Kể từ khi Nguyễn Hoàng đến tham vấn Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, được ông mách cho là “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” tức là Hoành sơn một dãy, có thể dung thân.
Nguyễn Hoàng lúc bấy giờ sống bên chúa Trịnh rất bất an, có nguy cơ bị mất mạng bất cứ lúc nào. Một hôm, chúa Nguyễn Hoàng bèn nhờ chị gái xin với chúa Trịnh tức là anh rể mình, cho đi trấn thủ phía Nam. Chúa Trịnh Kiểm vốn cũng chẳng ưa gì Nguyễn Hoàng bèn đồng ý ngay. Nguyễn Hoàng được dịp vào nam bèn mở mang bờ cõi, lập nghiệp kể từ đó. Sau khi chúa Nguyễn Hoàng mất, các người con, cháu của Ngài tiếp tục sự nghiệp, mở mang bờ cõi để cũng cố thế lực, rồi một khi đủ sức, thì đánh trả lại chúa Trịnh. Hai thế lực chúa Trịnh, Nguyễn có đến 7 trận giao tranh lớn. Rốt cục, không ai thắng ai, nhưng để lại hậu quả rất lớn cho nhân dân ở vùng giao tranh. Kết quả là, nhân dân vùng giao tranh phần lớn phải bỏ tất cả nhà cửa ruộng vườn đi lánh nạn, phiêu bạt khắp nơi, trong đó, đại bộ phận tìm đến vùng đất mới, Đồng Nai, Biên Hòa, Sài Gòn, và ĐBSCL. Đó là những lưu dân Việt đầu tiên đến sinh sống và khai hoang đồng bằng phì nhiêu phía nam hiện nay. Họ ra đi với những vật dụng đơn giản nhất giúp cho họ sống sót như ít gạo, nồi đất, chiếu cói, nóp… và với những hạt lúa giống quý lúc nào cũng mang theo. Với những chiếc thuyền, họ men theo dãy bờ biển, đi mệt thì nghỉ ngơi, nấu ăn, tìm thêm lương thực, đồng thời cũng tìm xem những nơi mình đến có thể sống được không. Nếu chưa được, họ lại tiếp tục cuộc hành trình rồi đến tận ĐBSCL. Nếu may mắn còn sống sót, không bị bệnh tật thì sau 3 năm họ đã lập được nghiệp với chục mẫu ruộng khẩn hoang, ít vườn, nhà cửa đơn sơ nhưng cuộc sống dễ chịu hơn nơi quê nhà rất nhiều nếu không muốn nói là sung sướng.
Vào thời điểm đó, thuyền, bè, ghe là phương tiện dường như duy nhất đối với những người đi khẩn hoang. Họ phát hiện ra ĐBSCL rất phì nhiêu, hiền hòa, không có những cơn bảo tàn phá ghê sợ như ở trung phần. Bất cứ khi nào cần duy chuyển là đi bằng ghe, tàu, đò. Ghe, xuồng, đò ăn sâu vào tâm thức người lục tỉnh đến nỗi, xe rước khách liên tỉnh cũng được gọi là xe đò, vì đò quá quen thuộc với người dân. Đò thì có đò ngang, đưa người qua sông, đò dọc, đưa người xuôi dòng sông khá xa, đò chợ chở các bà, các cô đi chợ, hoặc mua bán từ vùng này đến vùng khác….
…Từ tp.HCM đến các tỉnh miền Tây ngày hôm nay có thể chạy dọc theo đại lộ Đông Tây. Một công trình khởi công vào tháng 4-2005 và dự kiến thời gian hoàn thành toàn bộ công trình vào tháng 10-2010. Đang được khôi phục, nâng cấp từ tuyến đường hiện hữu và xây dựng thêm tuyến đường mới để tạo thành một trục đường mới ra vào phía Nam theo hướng Đông - Tây, nhằm giảm ách tắc giao thông cho cầu Sài Gòn và các trục chính trong thành phố. Tuyến
đường này đáp ứng yêu cầu lưu thông cho các cảng của thành phố đi các nơi theo hướng Đông Bắc - Tây Nam và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, tạo trục giao thông sang Thủ Thiêm, và cải thiện môi trường ven kênh mà nó đi qua, tăng vẻ mỹ quan cho thành phố. Đại lộ chạy dọc theo kênh từ quốc lộ 1A huyện Bình Chánh đến ngã ba đường Yersin - Chương Dương gần cầu Calmette, quận 1; vượt sông Sài Gòn bằng hầm Thủ Thiêm và nối với xa lộ Hà Nội tại Ngã ba Cát Lái, quận 2. Chiều dài toàn tuyến là 21,89km, đi qua địa bàn các quận 1, 2, 4, 5, 6, 8, Bình Tân và huyện Bình Chánh, tạo thành một tuyến trục giao thông Đông - Tây, và kết nối hai đầu Đông Bắc - Tây Nam thành phố. Đại lộ Đông – Tây tạo điều kiện thuận lợi cho các phương tiện giao thông ra vào cảng Sài Gòn và từ đây đi các tỉnh miền
Đông và miền Tây không phải đi vào trung tâm thành phố. Đây sẽ là con đường huyết mạch liên kết chặt chẽ các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
P/S THÊM :
- Thứ nhất: Miền Tây không có lũ lụt mà chỉ có mùa nước nổi:
+ Ở miền Tây không có lũ mạnh như miền Bắc, miền Trung nên bạn dùng lũ lụt là chưa chính xác đối với miền Tây. Chính
xác phải gọi là mùa nước nổi. Vùng ĐBSCL nhận nước lũ từ thượng nguồn sông Mekong đổ về từ tháng 6, tháng 7 dâng lên từ từ tràn lên đồng “nằm” ở đó rồi đạt đỉnh tháng 9, tháng 10 và đến tháng 11 ( đều là âm lịch) bắt đầu rút xuống dần.
Đến từ từ và rút êm ái, có hung dữ đâu mà gọi là nước lũ ??
+ Ở miền Bắc, miền Trung khi đến mùa nước về thì tốc độ dòng chảy và lưu lượng dòng chảy rất dữ dội và gây thiệt hại không lường. Ở đó, lũ cuốn phăng tất cả hoa màu, nhà cửa… trên đường nó đi qua và gây ngập lụt bất ngờ, đường sá bị
chia cắt, xóm làng bị cô lập khiến người dân không kịp trở tay. Vì thế ở 2 miền này người ta gọi là lũ lụt
- Thứ 2: Nên gọi là “tôn giáo bản địa”, không nên dùng “tôn giáo địa phương”. Tôn giáo địa phương nghĩa là tôn giáo đó chỉ thịnh hành trong địa phương đó, không tồn tại ở những địa phương khác. Nhưng thực tế các tôn giáo ra đời ở miền Nam truyền bá rộng khắp Nam Bộ, không hạn hẹp trong 1 địa phương cụ thể. Gọi tôn giáo bản địa (tôn giáo hình thành trong chính quốc gia đó) thì hợp lí hơn.
- Thứ 3: Đoạn sau chưa chính xác: “Năm 1780, Mạc Thiên Tứ mất, không có con nối hậu. Từ đây, đất Hà Tiên sáp nhập vào cơ đồ chúa Nguyễn. Sự nghiệp Nam tiến của dân tộc Việt Nam đến đây đã hoàn thành”.
+ Vì không chấp nhận sự cai trị của nhà Thanh, nên Mạc Cửu đã vượt biên sang cư trú tại Hà Tiên vào năm một 1680.
+ Do quân Xiêm thường xuyên đến cướp phá nên năm 1708, Mạc Cửu đã đem toàn bộ vùng đất Hà Tiên do mình đang cai quản dâng cho chúa Nguyễn, chúa Nguyễn tiếp nhận Hà Tiên và và phong cho Mạc Cửu chức Tổng binh trấn Hà Tiên. Chúa Nguyễn cho phép họ Mạc được hưởng chế độ “thế tập” (con cháu được thừa hưởng tước vị “Tổng binh” của Mạc Cửu). Từ việc tổ chức quân sự, đến chế độ tô thuế, chúa Nguyễn đều giao cho họ Mạc có quyền tự quyết. Từ đây, chủ quyền của Đại Việt đã mở rộng đến tận Hà Tiên, mũi Cà Mau, bao gồm các hải đảo ngoài biển Đông và vịnh Thái Lan.
+ Như vậy từ 1708 Mạc Cửu dâng Hà Tiên cho chúa Nguyễn và Mạc Cửu đã trở thành quan của nhà Nguyễn, thay nhà Nguyễn quản lí Hà Tiên. Nên mốc đánh dấu Hà Tiên nhập vào lãnh thổ Đại Việt là từ năm 1708, chứ không phải cho đến khi Mạc Thiên Tứ mất năm 1780 thì Hà Tiên mới về tay chúa Nguyễn .
Nhận xét
Đăng nhận xét